Tôi mở mục này ra để chúng ta cùng tranh luận với nhau về các thao tác trong dây chuyền từ chuẩn bị đến xử lý hậu kỳ ảnh. Các bước sau là tôi lược dịch từ một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp người Mỹ ở San Francisco.
Dây chuyền thao tác là một phương thức tiêu chuẩn hóa để xử lý ảnh, đảm bảo sự đồng bộ của 1 tập ảnh. Nhiếp ảnh là môn nghệ thuật cho nên không có dây chuyền thao tác nào là đúng nhất.
1. Lựa chọn thiết bị - trước khi chụp, chúng ta cần lực chọn các thiết bị cần thiết cho buổi chụp ảnh. Sự lựa chọn thiết bị chụp phụ thuộc vào thể loại ảnh của buổi chụp. Ví dụ: nếu ta quyết định chụp chim thì ta chọn ống kính tele dài, kiến trúc thì chọn ống kính rộng, macro thì ta chọn kính macro, v.v... Địa điễm chụp cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn giữa tấm khuếch tán sáng (diffuser) hay tấm phản quang sáng (reflector) . Với ảnh trong studio, sự lựa chọn có thể còn phức tạp hơn với đèn strobes, phông , light modifiers và reflectors, softbox hay dù (sự khác nhau giữa softbox và dù) v.v... Đôi khi chúng ta còn mang theo các thiết bị không theo tiêu chuẩn để thử nghiệm cái gì đó mới mẻ và mang tính nghệ thuật. Một phần lý do chúng ta cần chọn lựa thiết bị trước buổi chụp là vì chúng ta cần chuyên chở dụng cụ đến chổ chụp và có thể mang nhiều hơn cần thiết. Cho dù chúng ta có cẩn thận đến đâu lúc chọn thiết bị, đôi khi ống kính mình cần lại là ống kính mình để ở nhà.
2. Chọn lựa độ phơi sáng (exposure) - độ phơi sáng phù hợp là 1 trong những yếu tố quan trọng của nhiếp ảnh. Mặc dù ảnh có thể được điều chỉnh lúc nhập (import) và điều chỉnh trong giai đoạn xử lý ảnh số, chọn đúng độ phơi sáng sẽ cho kết quả ảnh chất lượng cao nhất. Chúng ta có nhiều phương pháp để chọn đúng độ phơi sáng, bao gồm bộ phận đo sáng sẳn trong máy số, máy đo sáng, bộ phận xem histogram trong máy và bộ phận báo động dư sáng nhấp nháy (blinking highlights). Thông thường trong khi chụp chúng ta cũng hay nhìn vào màn ảnh sau lưng máy để kiểm tra histogram hay phần nhấp nháy dư sáng của ảnh để biết là ta chọn độ sáng phù hợp.
3. Chọn độ cân bằng trắng (white balance) - hầu như lúc nào chúng ta cũng nên làm gì đó để chọn độ cân bằng trắng, để rồi cuối cùng chọn chế độ cân bằng trắng tự động của máy. Chúng ta có thể dùng sự tổng hợp của phương pháp chọn cân bằng trắng với expo disk hay nắp cafe hộp trắng đục chụp vào vật thể có màu như "Gretag-Mackbeth chỉnh màu" hay thẻ Whi-Bal để chọn cân bằng trắng và sau đó điều chỉnh trong quá trình xử lý ảnh.
4. Chụp ảnh - Đây là lúc con mắt nghệ thuật đóng vai trò chính: nhằm bố cục ảnh, có được một ảnh đáng đồng tiền, hãy để cho óc sáng tạo tự do, bắt đầu tuân theo một số quy luật căn bản về bố cục trong nhiếp ảnh để có những ảnh tiêu chuẩn và rồi phá cách phá luật để có những bức ảnh phi thường. Nếu chúng ta may mắn chúng ta sẽ vào được thế giới của nhiếp ảnh, nơi mà chúng ta ngưng việc suy nghĩ bằng ngôn từ và thay vào đó bắt đầu suy nghĩ và diễn đạt bằng hình ảnh. Đó là lý do người ta vẫn hay nói là 1 bức ảnh tốt thay cho cả ngàn lời nói ( a good picture is worth a thousand words)
5. Copy lưu trữ ảnh - một bức ảnh hoàn toàn không an toàn nếu ta không copy ra nhiều phiên bản. Chúng ta cũng nghe nhiều những câu chuyện đáng tiếc về việc mất những tấm ảnh giá trị do phần bộ phận lưu trữ bị hỏng, vì thế việc đầu tiên chúng ta làm sau khi chụp là copy nhiều bản. Chúng ta có ổ đĩa cứng, ổ sao chép CD, ổ sao chép DVD trong máy điện toán hay trong máy điện toán xách tay là nhằm mục đích này. Thậm chí chúng ta còn có các thiết bị lưu trữ ảnh khi đang tác nghiệp chạy bằng pin và có ổ cứng để lưu lại ảnh . Thông thường, chúng ta copy ảnh, vào ổ cứng của vào máy chính nhằm để xử lý ảnh trong 1 cặp tài liệu (folder) với nguyên tắc đặt tên YYYYMMDDTênBuổiChụp (YYYYMMDDEventName = 4 số cho năm - 2 số cho tháng - 2 số cho ngày trong tháng - tên buổi chụp). Chúng ta thường lưu trữ ở dạng RAW vào cặp tài liệu YYYYMMDDTênBuổiChụp.
6. Xóa ảnh không đẹp - Trước hết ta xét duyệt vòng 1 qua các ảnh và xóa những ảnh focus sai, những ảnh có vẻ mặt chủ thể không hay (hay bị nháy mắt), bố cục tệ v.v... Khi làm việc với người mẫu, chúng ta thì việc xóa những ảnh xấu là rất quan trọng trước khi cho mẫu xem ảnh.
7. Xử lý sơ ảnh mẫu - Xử lý sơ ảnh nhằm điều chỉnh sáng và cân bằng trắng. Để xử lý sơ ảnh mẫu, chúng ta chọn 1 ảnh làm mẫu. Ảnh mẫu là ảnh tiêu biểu nhất trong bộ ảnh và dùng làm chuẩn điều chỉnh cân bằng trắng. Chúng ta nhập ảnh vào Photoshop để điều chỉnh điểm trắng, điểm đen, độ sáng tối, và cân bằng sáng. Kế đến chúng ta dùng chức năng tự động hóa (automation) trong Phostoshop để áp dụng những bước chỉnh trên chó hết các ảnh mà điều kiện chụp của ảnh tương tự như ảnh mẫu. Chúng ta có thể phải chọn ta nhiều ảnh mẫu tiêu biểu cho nhiều điều kiện chụp khác nhau trong cùng 1 buổi chụp để điều chỉnh cho chính xác với từng điều kiện.
8. Quá trình kiểm duyệt - Quá trình Xử lý ảnh tự động hóa với javascript (Image Processor java script) dùng để chuyển định dạng ảnh từ RAW khi chúng ta chụp ảnh số sang định dạng JPG.
Các bạn dùng Photoshop chú ý: Image Processor được thêm vào Photoshop CS2. Một bộ phận plugin được chế tạo cho các bạn dùng Photoshop CS để có được chức năng này.
Chúng ta dùng Image Processor để chuyển ảnh từ RAW sang JPG, để chuyển không gian màu từ aRGB sang sRGB (khác nhau giữa aRGB và sRGB), và để chuyển ảnh sang khổ 600 pixel cho cạnh dài nhất (các bước thâu action tự động hóa và ứng dụng hàng loạt). Chúng ta chọn tập tài liệu YYYYMMDDTênBuổiChụp làm nơi lư trữ hậu xử lý, sau khi xử lý ảnh sẽ tự động được gửi vài tập tài liệu tên JPEG nằm trong cặp tài liệu YYYYMMDDTênBuổiChụp. Ta nên đổi tên cặp tài liệu JPEG thành PROOFS
9. Bản xem thử cho Web (Web proofs) - Công cụ web photo gallery tool trong Photoshop dùng để tạo phần trình bày cho phần ảnh xem duyệt. Chúng ta có thể dùng nó để thêm phần watermark ngay giữa ảnh và tạo trang web để xem ảnh qua mạng. Chúng ta có thể tạo cặp tài liệu TEMPWEB trong YYYYMMDDTênBuổiChụp để lư trữ các tài lệu tạo bởi công cụ web photo gallery tool trong Photoshop
10. Chọn ảnh - Cặp tài liệu TEMPWEB có thể được chép lên CD hay đưa lên mạng với mật khẩu để xem xét. Người mẫu và khách hàng duyệt xét ảnh proof để chọn ảnh họ thích hay không thích. Trao đổi về duyệt ảnh thông thường có thể qua e-mail.
11. Ảnh tuyển chọn - Ảnh được chọn và xử lý từng ảnh riêng rẻ. Các ảnh chọn lần được mở ra dưới dạng RAW để điều chỉnh điểm trắng, điểm đen, độ sáng tối, cân bằng sáng và xử lý chi tiết. Các công đoạn đã được thử qua trong bước #7 ở trên. Bước này là để áp dụng vào ảnh xử lý chi tiết hơn từ những ảnh đã qua công đoạn duyệt cẩn thận.
12. Phân tích ảnh - Sau khi mở ảnh, chúng ta phân tích bố cục, tone màu, màu sắc và những điểm cần chưa hoàn hảo. Phân tích trên ảnh ở kích cỡ thực (actual size). Trong công đoạn này chúng ta có thể dùng layers và để lại ghi chú cho công đoạn chuẫn bị in (rất quan trọng nếu chúng ta không phải là người điểu chỉnh công đoạn cuối trước khi in.
13. Điều chỉnh ảnh (adjust) - Tùy theo những phân tích ở bước trên, ta có thể cần những công đoạn như khử hạt (noise removal) với các phần mềm như Neat Image hay Noise Ninja , điểu chỉnh phối cảnh góc độ (perspective) ảnh, cần chỉnh thẳng đường chân trời, tạo ảnh trong, điều chỉnh màu kỹ hơn, thêm filters, cắt cúp v.v... Ảnh cuối cùng được lưu dưới dạng Photoshop (*.psd)
14. Sửa nét ảnh (retouch) - Tùy theo những phân tích ở bước phân tích ảnh, ta có thể cần những công đoạn như làm mịn da, xóa các vết trầy, giảm nếp nhăn, tone màu da v.v... Ảnh cuối cùng được lưu dưới dạng Photoshop (*.psd)
15. Chuẩn bị ảnh để in - Thông thường chúng ta in ảnh kích thước 8x10 hay 11X14 (đơn vị đo inches). Khi điều chỉnh ảnh để đúng cỡ để in, lưu trữ vào 1 cặp tài liệu khác tên PRINT. Chúng ta làm vậy để khi ta cần nhiều cỡ ảnh khác nhau, chúng ta vẫn giữ bản chính không bị chỉnh kích thước.
16. Chuẩn bị ảnh để khoe trên web - Thông thường chúng ta muốn ảnh web tương đối tốt, cho nên chúng ta cần chú ý công đoạn chuẩn bị ảnh cho mạng. Trước hết chúng ta dùng Photoshop chuyển màu từ aRGB sang sRGB và từ 16 bits sang 8 bits. Kế đó ta giảm ảnh xuống resolution 72 dpi và 600 pixel (VNPhoto cho phép 800 pixel) cạnh dài nhất. Sau đó ta lưu trữ ở dạng JPG cho web và để trong cặp tài liệu WEB để khỏi lẫn với các loại khác. Chúng ta có thể tạo brush hay action trong Photoshop để làm phần bản quyền (copyright)
17. Ta có thể lấy các ảnh khác đã chọn ở bước #10 và lặp lại các bước #11 - #16
18. Lưu trữ lâu dài - để lưu trữ lâu dài chúng ta cần copy nguyên cặp tài liệu YYYYMMDDTênBuổiChụp vào CD/DVD/ổ cứng rời (external hard drive). Cách tương đối an toàn nhất là có 3 bản copy khác nhau. Chúng ta cũng có thể phải copy 1 bản CD hay DVD cho khách hàng hay người mẫu (tùy yêu cầu của giao kèo). Bây giờ sau khi đã copy 3 bản, chúng ta có thể xóa bản trên máy điện toán hay labtop dùng để xử lý ảnh.
Mời các bạn cùng tham gia góp ý cho vui. Bước nào hữu ích cho bản thân thì mình áp dụng. Qua phần trình bày và góp ý, có thể các bạn sẽ rút ra được cho mình 1 dây chuyền phù hợp khả năng và đòi hỏi của riêng mình.
Mấy cái này là hoàn toàn cho vui xin các bạn đừng có gây lộn :lol:
Bổ sung:
- Thêm các link từ các thuật ngữ nhiếp ảnh, thiết bị, và một vài hướng dẫn cụ thể để giúp thành viên nhanh chóng tìm câu trả lời nếu cần.