Tiếp tục đưa các tác giả chuyên viết chuyện tưởng tượng về với đời thật :
Sự ngông nghênh, ngạo mạn của Trịnh Vĩnh Bình đã «xẹp lép» vào chiều ngfay 27-8-2017 khi cả ông ta và đại diện Bộ Tư pháp Việt Nam cùng bước ra khỏi trụ sở của Tòa Trọng tài Thương mại quốc tế (The International Court of Arbitration – ICC) đặt tại số nhà 112, phố Kléber, Paris, Pháp mà không nhận được bất cứ một phán quyết nào của cơ quan trọng tài thương mại quốc tế này.
Sở dĩ có chuyện cơ quan này từ chối ra phán quyết là bởi theo Khoản 2 Điều 1 của Bản Quy tắc tố tụng của Phòng Thương mại quốc tế ICC năm 2017 thì tòa này có chức năng quản lý đối với việc giải quyết tranh chấp được áp dụng theo quy tắc tố tụng của ICC nên sẽ không đưa ra phán quyết chính thức về các vấn đề tranh chấp. ICC chỉ thực hiện việc giám sát tư pháp đối với các thủ tục tố tụng trọng tài, gồm việc xác nhận, chỉ định và thay thế các trọng tài viên. Ngoài ra là đưa ra quyết định về các phản đối đối với các trọng tài viên này, giám sát tiến trình tố tụng trọng tài đảm bảo theo thời hạn, xem xét và chuẩn y các phán quyết trọng tài để đảm bảo chất lượng và tính khả thi…Bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại quốc tế, gồm tranh chấp về hợp đồng và tranh chấp giữa nhà đầu tư là cá nhân với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, có thể được đưa ra phân xử tại một tòa trọng tài (không phải tòa án). Cơ sở là theo quy định tại hợp đồng hoặc hiệp định quốc tế giữa các quốc gia (như hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư). Đây là trường hợp từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Thông thường các hiệp định trên sẽ quy định tranh chấp được giải quyết bằng cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư giữa các quốc gia và công dân quốc gia khác. Đây gọi là cơ chế ICSID (International Centre for Settlement of Investment Disputes) theo Công ước Washington năm 1965.
Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa tham gia cơ chế này nên không thể buộc Việt Nam phải chấp nhận Công ước Washington năm 1965 khi ICC đưa ra bất kỳ một phán quyết nào.
Ngay cả khi ICC ra phán quyết thì Chính phủ Việt Nam vẫn còn có hai quyền được thực hiện. Thứ nhất là quyền yêu cầu hủy phán quyết bởi theo một trong các quy tắc tố tụng trọng tài thương mại quốc tế phổ biến như quy tắc trọng tài của Ủy ban LHQ về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) hoặc quy tắc trọng tài của ICC. Nếu vụ việc được giải quyết bằng cơ chế Tòa Trọng tài Thường trực thì có thể áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài của chính tổ chức trọng tài đó, chẳng hạn như quy tắc tố tụng riêng của ICSID.
Ngoài ra, giá trị pháp lý và việc thi hành phán quyết thường được xác định trong phán quyết của tòa trọng tài đó. Về cơ bản các phán quyết này sẽ có giá trị chung thẩm, không có thủ tục phúc thẩm và yêu cầu các bên thực thi bằng việc công nhận và cho thi hành tại các nước liên quan. Mặc dù vậy, phán quyết này có thể bị bên phải thi hành yêu cầu tòa án nơi diễn ra phiên xử trọng tài hủy (set aside) và không công nhận, cho thi hành tại nước phải có nghĩa vụ thực thi phán quyết. Cả hai điều này dẫn đến khả năng làm vô hiệu hóa phán quyết trọng tài. Đối với cơ chế của ICSID, theo đề nghị của một bên, phán quyết này cũng có thể được hủy bỏ (annulment) bằng cơ chế xem xét riêng của ICSID.Và Việt Nam cũng có thể giữ quyền thứ hai nếu ICC có phán quyết là quyền từ chối thi hành phán quyết. Bởi theo điểm b khoản 2 Điều 5 của Công ước New York 1958 về công nhận các phán quyết trọng tài nước ngoài thì việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị một quốc gia từ chối dựa trên lý do là việc này sẽ vi phạm luật pháp hoặc trái với trật tự công cộng của quốc gia đó. Do đó, việc thi hành các phán quyết chống lại quốc gia thường bị vô hiệu hóa hoặc bị cản trở bằng việc áp dụng nguyên tắc về quyền miễn trừ quốc gia (state immunity). Trong đó có thể viện dẫn yếu tố lợi ích công, việc bảo vệ tài sản quốc gia không sử dụng vào các mục đích thương mại hoặc những đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao (diplomatic privilege).
Trong trường hợp phán quyết không được thực thi thì các cơ chế giải quyết bằng trọng tài hiện không có chế tài cụ thể để buộc phải thực thi. Tuy nhiên, các biện pháp trả đũa thương mại có thể được các nước liên quan áp dụng nhằm đảm bảo việc thi hành phán quyết cho công dân của mình. Ngoài ra, có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của nước phải thực thi phán quyết trong quan hệ quốc tế. Một vấn đề khác là các tòa trọng tài quốc tế về thương mại chỉ giải quyết các tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế hoặc đầu tư quốc tế. Trong đó, vấn đề cốt lõi là phải chứng minh được vụ kiện có thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài hay không; nguyên đơn có phải là nhà đầu tư hay không; khoản đầu tư của nhà đầu tư có hợp pháp không và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư đã vi phạm như thế nào. Vì vậy, các phán quyết không thể đi ra ngoài các nội dung tranh chấp nêu trên.
Ngoài ra, phía nguyên đơn có thể đưa ra yêu cầu về bồi thường nhưng việc xác định mức bồi thường cụ thể sẽ do trọng tài quyết định trong phán quyết trên cơ sở xem xét về thiệt hại, sự hợp lý… Điều đó không có nghĩa bên nguyên đơn đòi bồi thường bao nhiêu thì sẽ được tuyên bồi thường bấy nhiêu.*Bài viết có sử dụng tư liệu của Tiến sĩ Luật học Trần Thăng Long, Giảng viên Khoa Luật quốc tế, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ !