Cháu xin mạn phép các cụ sư phụ máy film viết chút ít về em này. Chỉ là các thông tin thu thập được từ internet và các tạp trí. Nếu có gì sai mong các cụ sửa giúp.
Konica Autoreflex T3
Chiếc Konica Auto-Reflex đầu tiên được sản xuất và tung ra thị trường năm 1965 là một chiếc máy đặc biệt đáng chú ý và là chiếc máy ảnh mà tất cả những người thợ chụp hình cũng như người yêu thích nhiếp ảnh đều biết tới, mặc dù có thể họ chưa bao giờ sử dụng nó. Sở dĩ nó là chiếc máy được chú ý là vì nó là chiếc máy ảnh 35mm film Nhật bản đầu tiên có hệ thống phơi sáng tự động, và là chiếc máy duy nhất có khà năng thay đổi từ fullframe 24x36mm xuống còn half-frame 18x24mm, trên một cuộn phim 35mm.
Trong bài viết này, nhà cháu xin phép chỉ đề cập tới chiếc T3, mà nhà cháu đang sở hữu.
Konica autoreflex là chiếc máy SLR đầu tiên có khả năng tự động chọn khẩu qua ống kính khi ưu tiên tốc độ chụp (Tv : shutter-priority ). Những chiếc AutoReflex máy đời T này đã trở nên "thông thường" hơn so với những chiếc Auto-Reflex cũ, chức năng thay đổi frame đã được loại bỏ (vì có lẽ đã không cần thiết). Thay vì nút chỉnh tốc độ chụp nằm ở phía trước, trên thân auto-Reflex, thì bây giờ trên máy autoreflex Tnó đã trở về vị trí thông thường là cạnh nút mở màn sập. Phương thức ưu tiên tốc độ đã làm việc thực sự có hiệu quả với những chiếc máy đời T và đã nhanh chóng được nhiếp ảnh gia thời đó chấp nhận. Chiếc máy AutoReflex T3 được giới thiệu năm 1973 bởi hãng Konishiroku, sau sự thành công liên tiếp từ chiếc AutoReflex T - năm 1968, T2 - năm 1970. Chiếc T3 là một chiếc máy đầy đủ chức năng của một SLR tại thời điểm này với phương thức chọn khẩu tự động, khả năng xem trước DoF, khả năng chụp chồng phim, mirror look-up, chụp hẹn giờ....
Cảm giác của cháu khi cầm chiếc T3, to, nặng và rất chắc chắn, phải nói là nồi đồng cối đá, riêng thân máy không đã nặng tới 740g. Có câu nói đùa: nếu kẻ cướp muốn cướp chiếc T3 từ tay bạn thì hay ném nó vào hắn... Hệ thống cửa sập và màn chắn sáng làm việc rất tốt ngay cả với điều kiện khí hậu lạnh giá, sau 30 năm sử dụng. Hệ thống đo sáng rất chính xác của T3 được nằm bên phải viewfinder, ánh sáng đi vào camera được xác định và đánh dấu trên một thước đo với các mốc tương ứng với khẩu độ mở của lens,: 1.2, 1.4... 16. Tùy theo tốc độ người chụp chọn mà máy ảnh sẽ chọn khẩu cho lens, và khẩu sẽ được hiện thị trên viewfinder khi chiếc kim sáng dừng lại tại vị trí mở khẩu.
Tốc độ chụp của T3 có khả năng chụp với tốc độ từ B cho tới 1/1000s và tối đa 1/125s với flash, nhưng so với máy ảnh thời nay thì cửa sập của T3 phát ra âm thanh rất lớn nhưng ai quan tâm tới điều đó nhỉ .
Autoreflex T3N
Năm 1974, chiếc T3N được giới thiệu, và đến năm 1975 thì nó đã hoàn toàn thay thế chiếc T3 trên thị trường. Với một chút ít cải tiến từ chiêc T3, chân đèn flash ở T3N đã được gắn liền với máy ( có thể tháo ra được với T3 ), cần lên phim đã được bọc nhựa, nút hẹn giờ chụp và kiểm tra DoF được thiết kế nhỏ hơn, nhưng nói chung những thay đổi này là không đáng kề, vì các tính năng kỹ thuật của hai chiếc máy này là hoàn toàn giống nhau.
Trở ngại lớn nhất khi dùng máy flim cổ hiện nay là thay pin cho máy. Cũng như các máy ảnh khác vào giai đoạn này, chiếc T3 dùng 2 viên pin oxi hóa thủy ngân ( các bác sửa nếu cháu sai- cái khoản hóa học là cháu mù tịt ), vì lí do môi trường mà những loại pin này đã bị ngưng sản xuất, đã có những loại pin cùng cỡ nhưng khác về số vôn nên khi dùng với máy ảnh này sẽ làm cho hệ thống đo sáng không còn chính xác nữa. Hiện nay đã có những phương thức để tiếp thêm sự sống cho những chiếc máy ảnh kiểu này VD; làm adapter cho pin, hoặc dùng pin zin/air. Cháu xin phép không đề cập tới trong bài này.
Cùng thời gian này, seri lens Hexanon AR đã được cải thiện bằng sự đánh dấu vị trí EE trên vòng xoay khầu ( sau này được thay đổi là AE ). Tại vị trí này, sự đóng mở khẩu của lens sẽ được xác định bởi camera, tùy theo tốc độ chụp và ánh sáng đi vào máy ảnh. Ống kính Hexanon được biết đến bởi chất lượng kính tuyệt hảo, cơ cấu lấy nét, đóng mở khẩu tối ưu, và Hexanon là ống kính ít gặp vấn đề trục trặc nhất so với các ống kính khác cùng giai đoạn. Sau đây là các ống kính đã được hexanon sản xuất với các tiêu cự : 21/4; 28/3.5; 52/1.8; 57/1.4; và đặc biệt là em 57/1.2; 135/3.5; 200/3.5; 400mm; 800mm; 1000mm; zoom thì có 47-100mm. Giữa thập kỷ 70s, Hexanon tung ra thêm AR 15/2.8; 24/2.8; 24-28/3.5 zoom; 35-70/4; 28/1.8; 85/1.8; 135/3.2; và 300/4.5. Tất cả những lens này đều là những ống kính có chất lượng quang học rất cao, cho những tấm ảnh với màu sắc trong, tương phản cao và sắc nét. Đặc biệt tất cả những yếu tố về vignetting, pincushion hay barrel distortions đều không xuất hiện trên ảnh chụp từ Hexanon.
Em AR 57/1.2 được sản xuất khoảng năm 1970 cùng giai đoạn với chiếc T2, và lúc đó chiếc T2 đã được cải tiến thước đo sáng ( có thêm vùng đo sáng cho khẩu 1.2 ) từ T để tương thích với em Ar 57/1.2 này. Theo một số nguồn thì em 1.2 này rất hiếm và là lens co khẩu 1.2 được đánh giá cao nhất so với những em 1.2 khác đã được sản xuất. AR 57/1.2 không được sharp như Ar57/1.4 ( tất nhiên ) nhưng người chụp ảnh đều hài lòng với AR 57/1.2.
Cuối những năm 60s và đầu 70s là thời kỳ vàng son của Konica, người sử dụng máy ảnh thời đó đã rất ưa chuộng Konica vì các tính năng và sự vượt trội trong công nghệ sản xuất ống kính của nó.
Theo cháu Konica Autoreflex T là chiếc máy ảnh rất đáng giá để góp thêm vào bộ sưu tập máy ảnh của các bác ạ.
Bài viết còn xơ xài mong các bác cùng cháu chỉnh sửa cho hoàn chỉnh.
Thân
Ref: http://www.buhla.de/Foto/Konica/eKonicaStart.html
http://cybernetdenis.net/camera.htm
Tạp trí: Amateur photographer 15/08/2008
Photography Monthly Dec/2007
Anh em song sinh: