Sau đây là một bài của tác giả H. Peyre về lịch sử nghệ thuật nhiếp ảnh. Ở đây, tác giả giới thiệu và tìm hiểu mĩ thuật trong nhiếp ảnh dưới con mắt nghệ thuật tạo hình. Bản sau đây có chỉnh sửa đôi chút so với bản đã đăng tại Hanoicorner vài năm trước đây.
---------------
Lịch sử nghệ thuật nhiếp ảnh (II): Nhiếp ảnh tạo hình là gì ?
H.Peyre
Việc gợi lại những trào lưu nhiếp ảnh thế kỷ 20 sẽ cho phép ta định vị rõ ràng hơn về cái mà ngày nay được gọi là "nhiếp ảnh tạo hình".
1. Chủ nghĩa hiện đại (modernism)
Nghệ thuật tự vượt qua mình trong khuôn khổ nghệ thuật nhưng sự tiên phong nhằm tói một xã hội lí tưởng.
Trào lưu : Cắt dán (từ 1920)
(Raoul Hausmann, ABCD (1923-24))
Nội dung
Việc tiên phong sử dụng kỹ thuật cắt dán (montage) thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới trong những tác phẩm giấy dán của Braque và Picasso; cắt dán và thẩm mỹ của nó có thể coi như là một trong nhưng sợi dây dẫn chủ đạo của sáng tạo nghệ thuật từ 1920.
Cắt dán rất nhanh chóng được áp dụng vào nhiếp ảnh thông qua ghép ảnh (photomontage) trong thẩm mỹ của sự vụn vặt và của sự sốc.Ta cũng tìm thấy ý định hội tụ hội họa, nhiếp ảnh và hình họa (drawing), nhiếp ảnh và chữ viết. Cắt dán được nghĩ đến như một phương tiện để chuyển tải ý nghĩa vào trong một hình ảnh đơn giản của hiện thực (với Brecht : chỉ hình ảnh đơn thuần không cho biết nhiều điều về thế giới; phải đưa vào những yếu tố ngoại nhiếp ảnh mới dẫn đến một logic của ý nghĩa). Nhiếp ảnh được giải quyết trong ghép ảnh như một chất liệu và như một cử chỉ (thu góp, cắt, dán ...). Cử chỉ này đi ngược lại nghệ thuật cổ điển bằng việc yêu cầu cái quyền được hỗn tạp. Ở đây có mong ước tạo dựng một trật tự mới của ý nghĩa, và để đạt được nó, phải từ bỏ những thể hiện cổ điển. Nếu như có những yếu tố thị giác mâu thuẫn, đơn giản đó là vì chúng là sự thể hiện của những mâu thuẫn và những căng thẳng của thời hiện đại. Những mâu thuẫn phải giữ được sự rộng mở, như một sự rạn nứt, một sự tan vỡ.
Ý tưởng này đạt đến cao trào với chủ nghĩa Đa-đa Béc-lin, cái mà trong cuộc chống lại chủ nghĩa biểu hiện Đức (German Expressionism) muốn là một sức mạnh hủy hoại, phế truất vai trò của nghệ sỹ, nâng cao vài trò của người dàn dựng (Hausman, Heartfield), gần gũi với kỹ sư, ngược với cái nhìn sùng bái về nghệ thuật và ngược với tư tưởng linh thiêng : người nghệ sĩ / người sáng tạo. Sự lắp ráp, bóc, thơ-áp phích là những phương pháp mang tính phá hủy. Chúng chế nhạo nghệ thuật và những tham vọng của nghệ thuật. Heartfield phát triển về một loại mới của người sản xuất nghệ thuật : nghệ sĩ dấn thân với toàn bộ tác phẩm được chuyển tải bởi chức năng và mục đích xã hội của nó. Một loại thẩm mỹ gây sốc được phát triển, với sự trợ giúp bởi sự hùng biện thuyết phục. Với Hausmann, ta rơi vào một sân chơi, trong một sự nhận thức, cái sự nhận thức chấp nhận "lệ thuộc vào sự thúc đẩy thị giác và ảo giác tự động" và có thể nhận biết những sự sắp đặt hình thức khác, những "tính tạo hình (plasticity) bị đảo lộn hoàn toàn và bất ngờ". Với John Heartfield, ghép ảnh dẫn dắt đến một không gian giai cấp, tác giả lắp khớp những mảnh vụn của hiện thực để khiến nó trở nên dễ hiểu với người dấn vào sự hỗn loạn của thế gian. Tác giả trình bày sự xóa bỏ quan điểm của giai cấp tư sản để thay thế bởi quan điểm của giai cấp vô sản. Trong nền ghép ảnh Xô viết (El Lissitzky, Alexander Rodtchenko), đó là một không gian được tiền tuyến hóa, phản phối cảnh chủ nghĩa và phản tự nhiên chủ nghĩa, liên kết văn bản và thị giác. Tác giả nhằm tới có một sức mạnh chi phối cao độ nhất có thể trên khán giả. Ghép ảnh được định hướng trong tổng thể bởi ngôn ngữ : thơ Đa-đa với Hausmann, khẩu hiệu chính trị với Heartfield hay các tác giả Xô viết. Ở Hausman, tựa đề không bao hàm hết ý nghĩa của tác phẩm nhưng, với tư cách là một yếu tố của cắt dán, đem lại một không gian cho chủ quan của mỗi khán giả. Ở Heartfield, tựa đề hoặc là một khẩu hiệu, câu lệnh, hoặc là một trích đoạn của một bài phát biểu, trích dẫn hoặc châm ngôn, như một mảnh hiện thực được dán lên một mảnh của hiện thực mà ở đây chính là bức ảnh. Ở những tác giả Xô viết, có sự coi trọng ngôn từ và cách trình bày chúng.
Mối liên hệ với triết học
Thế giới bị rạn nứt và có thể cải thiện được. Chỉ có hành động thơ ca và chính trị song song mới có thể biến đổi nó.
Mối liên hệ với sự cạnh tranh của giới không chuyên nghiệp, hay làm thế nào để được nhận biết là một nghệ sĩ ?
Nghệ sĩ là một người dấn thân vẽ ra con đường tới mốc số không của một xã hội mới. Người không chuyên nghiệp được coi như một người hưởng lạc thụ động, bị ru ngủ bởi những giá trị của văn hóa tư sản.
Mối liên hệ với nghệ thuật
Được coi là tiên phong, cắt dán được chấp nhận một cách khó khăn với truyền thống hiện đại của giáo lý Greenberg về sự thuần khiết của vật liệu (mỹ thuật). Theo lô gích của Greenberg, mỗi loại hình nghệ thuật phải tự giải phong khỏi những qui ước không thuộc về riêng nó để rút ra cái bản chất sâu kín : "cái lĩnh vực riêng biệt và duy nhất của mỗi loại hình nghệ thuật đi đôi với việc chất liệu của nó là duy nhất". Mỗi loại hình nghệ thuật phải tự chắt lọc bằng cách loại bỏ các phương tiện và các tác dụng vay mượn từ các loại hình nghệ thuật khác. Chủ nghĩa hiện đại tin tưởng vào sự tồn tại của bản chất của hội họa, của điêu khắc, của nhiếp ảnh. Những sự vượt qua dần dần tạo nên hình dạng của những sự tiền phong (tác giả áp dụng lý thuyết vào minh chứng cho những tiên phong Mỹ từ 1940). Tư tưởng này có một giá trị thẩm mỹ và vận hành thực tế và vẫn luôn có hiệu lực, nhưng trong khuôn khổ hạn hẹp của phân tích máy móc về những phương thức sử dụng của người nghệ sĩ. Ý tưởng về sự vượt qua liên tục trong chất liệu và ngoại lai với các điều kiện xã hội không còn được tin cậy nữa, và những tư tưởng về hòa trộn (lai hóa) cũng gây khó khăn cho nó.
Một số tên tuổi
Hausmann, Heartfield, Lissitski
Tuy nhiên, trong thời kì chủ nghĩa hiện đai, công chúng biết đến nhiếp ảnh chủ yếu qua dạng phóng sự.
Trào lưu : Phóng sự (từ 1920)
Henri Cartier-Bresson
Dòng người xếp hàng trước những
ngân hàng ở Thượng hải (1948)
Nội dung
1920: xự xuất hiện của máy ảnh khổ nhỏ (Leica) hay khổ trung có thể mang theo (Rolleilex) và các hãng ảnh mau chóng tôn vinh huyền thoại về phóng viên nhiếp ảnh.
Mối liên hệ với triết học : huyền thoại về "khoảnh khắc quyết định" được minh họa bởi Cartier-Bresson.
Quan niệm về "khoảnh khắc quyết định" được gắn kết với phóng sự và nhiếp ảnh báo chí (tin nhanh, ảnh sốc). Đó là niềm tin vào khả năng của bức ảnh co thể tái tạo khoảnh khắc tuyệt đối, một sự kiện trong sự trọn vẹn của nó được thể hiện trong một thới khắc duy nhất.
Mối liên hệ với sự cạnh tranh của giới không chuyên nghiệp, hay làm sao để được nhận biết là một nghệ sĩ ?
Người phóng viên nhiếp ảnh khác biệt với người không chuyên nghiệp ở chỗ anh ta cho rằng anh ta thể hiện :
- sự hy sinh của chủ quan với mục đích là thông tin,
- khả năng phân tích những quan niệm chính trị và xã hội của các xung đột,
- nhãn quan tuyệt đối để tái tạo lại những phân tích đó trong việc thu lấy "khoảnh khắc quyết định" đó,
- anh ta chu du khắp thế giới trong khi ngưới không chuyên nghiệp vẫn còn chưa biết đến khái niệm đi nghỉ ở các nơi xa xôi,
- anh ta tìm được những hình ảnh của một thế giới vẫn còn điều để khám phá, cộng thêm vào đó là huyền thoại về người thám hiểm.
Mối liên hệ với nghệ thuật
Cho dù được biết rộng rãi, người phóng viên nhiếp ảnh bị miệt thị trong nghệ thuật. Phải nhờ đến các cơ quan văn hóa Mĩ và một số cuộc triển lãm lớn để sự nhận biết mới diễn ra. Từ sự nhận biết này sẽ sinh ra khái niệm về tác quyền trong luật của nước Pháp... nó dành cho các tòa án tự định nghĩa chất lượng nghệ thuật của các tác phẩm nhiếp ảnh của mỗi cá nhân.
(còn nữa)