Tiếp theo: Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước tác động của chính sách khai thác thuộc địa của tư bản Pháp được đẩy mạnh sau khi giai đoạn chiến tranh chinh phục và bình định đã kết thúc (1858 – 1896), xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển ngày càng rõ rệt. Trên cơ sở mầm mống kinh tế tư bản đương hình thành, một ý thức tư tưởng mới đã có điều kiện thuận lợi để nảy nở và phát triển. Cộng thêm vào đó là ảnh hưởng bên ngoài cũng dồn dập tràn vào, từ Trung Quốc sang, từ Nhật Bản tới, càng củng cố them trào lưu tư tưởng mới.
Giữa bầu không khí chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ như vậy, và trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hồi đó, hai giai cấp tư sản và tiểu tư sản dân tộc lại chưa thành hình, sứ mạng tiếp thu tư tưởng mới (tư tưởng tư sản) lại thuộc về các sĩ phu tiến bộ nặng lòng yêu nước thương nòi, đang thiết tha mong nước giàu dân mạnh. Chủ trương làm cách mạng, mở đầu bằng phát triển văn hóa, những sĩ phu yêu nước và tiến bộ hồi đầu thế kỷ XX thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục (tức “trường học mở ra vì việc nghĩa ở Đông Kinh”) với mục đích truyền bá tư tưởng mới, đề cao việc yêu nước kết đoàn, tiến tới xây dựng phong trào trong nhân dân cả nước.
Tháng 3/1907, Đông Kinh Nghĩa Thục bắt đầu khai giảng tại nhà số 10, phố Hàng Đào (Hà Nội). Theo như kêu gọi, đó là một trường học tư hợp pháp, được chính quyền thực dân cho phép hoạt động.
Sáng lập viên là cụ Cử Lương Văn Can và Nguyễn Quyền, cùng nhiều nhà nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ như Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Dương Bá Trạc, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hữu Cầu… Nhà trường do Lương Văn Can làm Hiệu trưởng (lúc đó gọi là Thục trưởng), Nguyễn Quyền làm Giám học.
Học sinh không phải đóng học phí, mà còn được cấp giấy bút, sách vở, lại có ký túc xá cho độ vài chục học viên ăn ở, học tập ngay tại trường. Giáo viên lúc đầu đều không có lương, nhờ tài chính của nhà trường ngày càng dồi dào nên về sau mới có một trợ cấp nhỏ hàng tháng; ban Cổ động dùng hai hình thức diễn thuyết và bình văn để tuyên truyền cổ động cho nhà trường. Diễn thuyết hồi đó là một phương pháp tuyên truyền rất mới để phổ biến những tư tưởng mới trước một số đông người, như hô hào bài trừ hủ tục (rượu chè, ma chay, khao vọng, kêu gọi cắt tóc ngắn, vận động mua sách báo mới, mở trường học theo lối mới). Những buổi bình văn giới thiệu công khai các bài văn thơ yêu nước, là những dịp tuyên truyền lòng yêu nước cho đông đảo quần chúng.
Các buổi bình văn và diễn thuyết của Đông Kinh Nghĩa Thục đã mở rộng ảnh hưởng nhà trường trong nhân dân, kết quả là số người quyên tiền ủng hộ và gửi con em đến học ngày càng đông, cũng như một số hủ tục đã có phần giảm sút. Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục đã phản ánh sức thu hút mạnh mẽ và rộng rãi của hoạt động cổ động tuyên truyền của nhà trường như sau:
“Buổi diễn thuyết người đông như hội
Kỳ bình văn khách đến như mưa”
5#