(theo H. Peyre).
1812
Những nghiên cứu đầu tiên về nhiếp ảnh của Nièpce.
1826
Một tấm thiếc phủ bởi một lớp nhựa đường Judée, đặt trong một chiếc "camera obscura" làm xuất hiện một hình ảnh. Thời gian phơi sáng : nhiều ngày.
1833
Nièpce qua đời, Daguerre hãm hình ảnh với muối (NaCl).
1834
William Henry Fox, người Anh, cảm ứng giấy bằng cách sử dụng muối bạc và thu được những dấu vết, những "photogenic drawnings". Thời gian phơi sáng : một cho đến nhiều phút.
1835
Talbot phát minh ra kỹ thuật calotype: một hình ảnh dương bản được tạo ra từ một âm bản.
1839
William Herschel tạo được bức ảnh đầu tiên của mình và phát minh ra từ "nhiếp ảnh" (photography).
1839
Hippolyte Bayard, người Pháp thực hiện được những bức ảnh dương bản trực tiếp và triển lãm chúng ở Paris.
1839
Thông qua trung gian là nhà thiên văn học và chính trị gia Arago, Daguerre và Isidore Niepce (con trai của Niepce) nhận được trợ cấp suốt đời của chính phủ đổi lại việc phổ biến qui trình tạo Daguerreotype cho Viện Hàn Lâm Khoa Học. Daguerreotype là một hình ảnh dương bản đưọc tạo ra nhờ vào một lớp bạc phủ lên một tấm đồng được mài bóng. Nhờ vào hơi I-ốt, bạc trở nên nhạy cảm với ánh sáng. Tấm đồng phủ bạc phải được sử dụng trong vòng một giờ. Thời gian phơi sáng : 15 phút. Daguerreotype là một hình ảnh dương bản duy nhất, không thể nhân lên với bề mặt mỏng manh và gương. Việc dùng qui trình này dừng lại vào năm 1860.
1848 - l'Arc de Triomphe (Anton Melbye ?)
1840
Trào lưu hâm mộ chân dung. Nhiếp ảnh cho phép giới thiệu hình ảnh của mỗi cá nhân mà trước đó chỉ dành cho những người giàu có với chân dung bằng hội họa. Xuất hiện những bức ảnh đầu tiên mang tính "miêu tả sự kiện".
1840
Khởi đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp ở châu Âu.
1841
Kỹ thuật calotype (hay còn gọi là Talbotype) được đăng ký phát minh bởi Henry Fox Talbot. Bề mặt một tờ giấy được làm cứng bởi một dung dịch nitơ bạc, sau đó trải qua một số thao tác không thể thiếu để cảm ứng tờ giấy. Sau khi khô, nó được đưa vào trong một cái khung đỡ của một chiếc máy ảnh và thời gian phơi sáng dao động từ một đến nhiều phút. Sau khi phơi sáng, người ta tráng tấm âm bản thu được và từ đó cho phép tạo ra nhiều ảnh dương bản từ một âm bản duy nhất, điều rất khác biệt với qui trình của Daguerreotype.
1847
Blanquart-Evrard, người vùng Lille, Pháp thông báo với Viện Hàn Lâm Khoa Học những qui trình của mình sản xuất ra những ảnh dương bản từ những âm bản giấy. Đó là sự bắt đầu của công nghiệp hóa của nhiếp ảnh.
1848
Scott Archer phát minh qui trình collodion ẩm, tạo âm bản trên kính mỏng và trong hơn những âm bản trên giấy của Talbot. Được công chúng biết đến năm 1851, qui trình này được ưa chuộng rộng rãi đến khoảng 1880 (vào thời điểm nó được thay thế bởi các tấm phủ keo (gelatine) khô). Chất collodion được trộn thêm với các loại muối brome và muối i-ốt sau đó được phủ lên một tấm kính, sau đó đưọc đưa vào khung khi còn ẩm rồi được phơi sáng. Âm bản sau đó được tráng, để khô và đánh véc-ni.
Circa 1857: La vague brisée, Gustave le Gray
1850
Sự phát triển của nhiếp ảnh khỏa thân, dành cho các họa sỹ và những người khác. Thời điểm quan trọng : 1850-1870. Xuất hiện các cuốn sách giới thiệu các người mẫu với các kiểu tạo dáng theo kiểu cổ. Chúng khá gần với khỏa thân gợi tình, thậm chí kích dục của giới không chuyên.
1850
Mốt du lịch theo Hành trình lớn (hành trình tới phương Đông đi qua Ý và Hy Lạp). Hành trình này được các nhà cựu họa sỹ, nay chuyển sang nhiếp ảnh, hay các nhà ngoại giao và giới nhà giàu ưa thích.
1850
Chụp ảnh nghĩa là sở hữu : có được hình ảnh của mình, như các bậc vua chúa, chỉ ra những miền đất được chinh phục, dựng lên một cuộc kiểm kê tài sản của mình, tự tôn vinh bởi các thành công ký thuật. Các bức chân dung của các bậc vua chúa đi vào các album của gia đình, bên cạnh các hình ảnh của chính mình. Những cải tiến về kỹ thuật là những chủ đề lớn của các nhà nhiếp ảnh.
Circa 1855 : Self-portrait, Nadar
1850
Nhiếp ảnh sự kiện cũng xuất hiện.
Gettysburg, Penn, Jully 1863 : Harvest of death, O'Sullivan.
1851
Phái đoàn "Mission héliographique" bao gồm một số cựu họa sỹ (le Secq, le Gray & Baldus) và Bayard & Mistral. Nhiệm vụ của phái đoàn là lưu trữ một phần của di sản kiến trúc rộng lớn của Pháp. Mỗi một nhà nhiếp ảnh được giao một vùng riêng và các công trình kiến trúc cụ thể để chụp.
1855
Chiến tranh Crimée.
1855
Những ảnh phóng sự về chiến tranh Crimée không có người chết.
1859
Phát minh ra chiếu sáng bằng đèn ma-nhê.
1860
Thời gian phơi sáng vào chừng 1/50 giây.
1860
Nhiều họa sĩ đồng thời là nhiếp ảnh gia : Bonnard, Vuillard, Degas, Toulouse-Lautrec, Munch.
1860
Trong khi từ 1860 đến 1880 mốt nhiếp ảnh các dân tộc (thiểu số...) phát triển mạnh thì ở Mỹ nhiếp ảnh công nghiệp phát triển do nhu cầu của các hãng.
1878
Ngay từ 1865, các bức ảnh về mặt trăng của Rutherford, với bề mặt mặt trăng rất chi tiết, đã tạo được thành công lớn. Các ngành khoa học nhận thấy trong nhiếp ảnh một đồng minh "khách quan" và "chuẩn hóa" : tại bệnh viện Salpétrière một phòng lab về ảnh đã được mở ra với sự khởi xướng của Charcot. Nó được giao cho Albert Londe phụ trách (1882). Ở đó người ta chụp những chiệu chứng củe các lọai bệnh khác nhau. Charcot chụp các triệu chứng về hoang tưởng. Duchenne de Boulogne lưu giữ hình ảnh về sự thay đổi khuôn mặt dưới tác động của điện giật. Alphonse Bertillon say mê với việc nhận dạng pháp lý.
1880
Phát minh ra các tấm kính được tráng chất nhựa (gelatine) khô.
1883
Etienne-Jules Marey, nhà sinh lý học về các co quan vận động phát minh ra phép động ảnh (chronophotỏgaphy).
1887
Eadweard Muybridge nghiên cứu về sự phân tích các chuyển động. Marey, Anschütz, Londe cũng nghiên cứu về vấn đề tương tự.
1888
Trào lưu hội họa (Pictorialism) ra đời. Nó sẽ là khuynh hướng chính trong nhiếp ảnh đến khoảng 1910. Trào lưu hội họa là trào lưu mỹ thuật quốc tế đầu tiên.
1) Nó đối lập với cái nhìn nét của French Society of Photography.
2) Cái nhìn của nhà nhiếp ảnh được xây dựng trên những thể hiện của các cảm xúc.
Những người theo trào lưu hội họa tìm kiếm cảm hứng sáng tạo trong tất cả các trào lưu nghệ thuật : Ấn tượng, Biểu tượng, khuynh hướng Nhật bản, Tân nghệ thuật...
Những ngoại cảnh xuất hiện thường xuyên : phong cảnh lãng mạn, hình ảnh của thành phố bừng tỉnh với sự hiện đại. Tuy nhiên, không khí ngột ngạt của các cảnh nột thất tư sản chiếm đa số : khung cảnh đời sống gia đình, các trò chơi trẻ con, phòng nhạc, gia đình quây quần trong đại sảnh. Các phương thức quí tộc của nhiếp ảnh được ngợi ca. Các tác động của vật liệu được thể hiện để làm quên đi qui trình nhiếp ảnh, để tôn tác phẩm cuối cùng. Các giấy vẽ cảm ứng được ưa chuộng hơn so với các loại giấy công nghiệp.
Một số tên tuổi : Hugo Henneberg, Heinrich Kühn, René le Bègue, Robert Demachy, Constant Puyo, Ernst Juhl, Alfred Stieglitz, Alvin Langdon Coburn, Frank Eugene, Gertrude Käsebier, Edward Steichen, Clarence Hudson White, Peter Henry Emerson.
Vào khoảng 1902, tạp chí Camera Work, dựng lên bởi trào lưu của Stieglitz Photo-Secession với Steichen phụ trách về mỹ thuật, được tung ra ở Mỹ. Nó đưa ra một trào lưu hội họa tìm cách tôn vinh tính hiện đại Mỹ. Từ trong lòng nó sinh ra một mỹ thuật hiện đại : Straight Photography (Paul Strand).
1909: The Flatiron Building, Edward Steichen
1895
Rontgen phát hiện ra tia X.
1914
Bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Kiểm duyệt.
1920
Bùng nổ báo chí ảnh, trước hết tại Đức, Nga và sau đó là Pháp, Anh, Mỹ. Các hãng ảnh đầu tiên xuất hiện.
1920
Sự chỉ trích về sự tạo dáng và các tư thế đã dẫn tới trào lưu lớn đối lập với trào lưu hội họa : Straight Photography (với Steichen, Strand, Weston, Sheeler) ở Mỹ - xu hướng này cũng hòa lẫn với trào lưu New Vision ở Đức những năm 20. Trào lưu này chú trọng đến bố cục và ưa chuộng sự nét của ảnh. Nó cho rằng đem tới một cái nhìn chính xác về thế giới, đặc biệt trong các lĩnh vực ảnh đồ vật và ảnh kiến trúc. Đây là một trào lưu mang tính quốc tế, đặc biệt mạnh mẽ ở Đức, Hà Lan và Pháp.
Đa số các nghệ sĩ theo xu hướng New Vision là những nghệ sĩ đa năng và do đó ảnh hưởng của Mĩ thuật tạo hình lên các tác phẩm của họ rất rõ nét (lập thể, futurism, constructuvism, siêu thực). Những nghệ sĩ nhiếp ảnh mới đòi hỏi một dạng kĩ lưỡng về kĩ thuật và mang tính hiện đại của nhiếp ảnh. Nhiều người trong số đó đã làm cuộc cách mạng trong tất cả các loại hình nghệ thuật với say mê, đề cao tính lai hóa và sự hòa trộn của các thể loại (Laszlo Moholy Nagy ở Đức, Alexandre Rodtchenko và El Lissitzky tại Liên Xô, Man Ray, René Zuber và André Vigneau tại Pháp, Piet Zwart ở Hà Lan, Willy Kessel ở Bỉ).Cần phải chiếm lĩnh thế giới bằng cách ghi hình nó một cách chưa từng thấy, tổ chức ánh sáng, nhìn bằng cách mới, tìm những phối cảnh (perspective) lạ, làm biến dạng cái thực, xiết chặt lại các bố cục để tìm các giới hạn về yếu tố chính của bố cục. Trong buồng tối, người ta thực hiện các photogram, những chế bản của các phim âm bản, cắt dán ảnh, solarization, hiệu ứng lớp nổi (paraglyphe).
Người ta thậm chí liên kết vé phác thảo với nhiếp ảnh. Thể loại chân dung tìm kiếm sự tái tạo chính xác nhất, khách quan nhất hoặc lạnh lùng nhất của khuôn mặt. Khung hình là yếu tố quan trọng nhất của việc tôn vinh hình ảnh, nhưng sự ưa chuộng sự nét mới là chi tiết chính và đặc trưng của việc tôn vinh bằng ảnh. Cơ thể được tôn vinh, thường bị cắt bỏ những bộ phận phụ gây rối như chân, tay, hay thậm chí là khuôn mặt, và được tô vẽ lại bằng các bóng tối và ánh sáng. Đồ vật và kiến trúc hiện đại là các chủ đề yêu thích của các nhà nhiếp ảnh.Người ta tránh các kiểu nhìn trực diện, mà nhấn mạnh các chi tiết tạo hình, người ta dùng các sự méo hình, những kiểu nhìn đổ xuống hay hất lên, người ta tìm kiếm các đường cong làm lật không gian.
Trào lưu này dẫn đến cuộc triển lãm Film und Foto tại Stuttgart năm 1929. Một phần của các bức ảnh triển lãm được in lại trong hai cuốn sách quan trọng : Es kommt der Neue Fotograf của Werner Gräff và Foto-Auge của Jan Tschichold và Franz Roh. Hai cuốn sách này thiết lập và lý thuyết hóa... nhưng cuối cùng làm cuộc tổng kết về New Vision.
Circa 1930 : ..., Rodtchenko
1923
Những người theo chủ nghĩa Dada (Haussman với những bức ảnh cắt dán năm 1923-24, Grosz, Heartfield, Höch và Baader) và theo đó là trường phái Bauhaus và những người của trào lưu xây dựng (constructivism) Nga (Rodtchenko, Lissitzky, Klutsis, Schwitters) bãi bỏ sự tái tạo giản đơn của hiện thực. Nhiếp ảnh phải "nói nhiều hơn" là một sự tái tạo hiện thực. Chủ nghĩa siêu thực phát triển đến cùng quan điểm này một cái nhìn hoang tưởng (Max Ernst, Georges Hugnet) trong khi đó sự tuyên truyền chính trị nắm lấy nhiếp ảnh.
1923-24: ABCD, Raoul Hausmann
1925
Những năm 1925 đến 1940, những nghệ sĩ siêu thực phát triển chủ đề gợi tình như một cuộc giải phóng. Giáo hoàng của họ là Breton. Số những nghệ sĩ về nhiếp ảnh không nhiều, trào lưu đó chủ yếu trong văn chương và Breton nắm giữ giáo lý. Có thể kể đến Man Ray (với những rayogram), Boiffard, Parry, Hans Bellmer, Claude Cahun, Dora Maar, Raoul Ubac, hay thậm chí Brassaï bên lề trào lưu. Thời điểm đó, nhiếp ảnh muốn là một đại diện của sự khách quan hoàn hảo, trong khi đó chủ nghĩa siêu thực đòi hỏi "sự tự động tâm lý thuần túy", và các "giấc mơ và sự diệu kỳ". Đây là một cuộc hôn nhân (nhiếp ảnh & siêu thực) bất hợp pháp và ngẫu nhiên, mang nét đặc trưng Pháp, tuy nhiên nó được duy trì trong thời ký giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Điều khiến nó thành công : vị trí hàng đầu mà những nghệ sĩ siêu thực trao cho thị giác ! Nghệ sĩ, tiếp bước Rimbaud, là một người có nhãn quan của nhà tiên tri. Nhà nhiếp ảnh hoàn toàn có thể làm các thử nghiệm : sử lại khung hình, tráng rửa, cắt dán, hiệu ứng solarization, đốt cháy, và điều đó khiến bức ảnh trở nên một công cụ giàu có hiếm thấy phục vụ cho trí tưởng tượng được giải phóng khỏi những phân loại và sẵn sàng cho tất cả những sự lai hóa.
Với tất cả, người nghệ sĩ có quyền chọn lựa tác phẩm của mình, tất cả tôn vinh sự sẵn có tự do của các hình ảnh truyền thống hoặc được in ấn và sức mạnh tổng hợp từ một tư liệu có sẵn nhường chỗ cho sức mạnh duy nhất của tưởng tượng. Sự gợi tình là sức mạnh chính làm lay chuyển tư tưởng siêu thực. Vẻ đẹp và sự gợi tình gắn chặt với nữ tính. Ta tìm thấy trong sự quen thuộc cái lạ thường và phi lý. Sau chiến tranh, vẫn còn thấy một số hình ảnh, nhưng nhìn chung ở đó sự tưởng tượng trở nên khô cứng để nhường chỗ cho tác phẩm tròn trịa. Chiến tranh, điều lo ngại nhất, đã xảy ra, trải rộng hơn, khắc nghiệt hơn và kinh hoàng hơn mà không ai có thể mường tượng được trước.
Những ký thuật siêu thực :
- chồng ảnh : xếp chồng hai hay nhiều yếu tố từ hai hay nhiều âm bản chồng nhau (Boiffard, Parry, Tabard)
- cắt dán ảnh : tạo dựng tác phẩm tử những bức ảnh được cắt, dán và ghép lại với nhau.
- dựng ảnh (photomontage) : ghép những ẩm bản lại (Ubac)
- photogram : ghi lại đơn thuần các dấu ấn mà không cần qua trung gian là máy ảnh (Schad, Man Ray, Moholy Nagy)
- solarization : phơi sáng trong một thời gian ngắn một âm bản hay một dương bản trong khi đang tráng rửa, điều đó làm lật lại một phần các tông (Man Ray, Tabard)
- đốt cháy : làm chảy dần dần âm bản bằng một nguồn nhiệt. Sự phá hủy từ từ của hình ảnh đem lại những kết quả bất ngờ (Ubac)
1939: The lobster girl, Dali