View Full Version : Công Nghệ Ống Kính Máy Ảnh
nicky7803
13-04-2005, 01:06 AM
Hầu hết trong chúng ta, những người sử dụng máy ảnh SRL, cho dù là nghiệp dư hay dân Pro, thường trang bị một hoặc hai thân máy là quá đủ nhưng nhu cầu trang bị ống kính thì hầu như bất tận và ngân sách đầu tư ống kính chiếm một tỉ lệ khá lớn trong tổng giá trị thiết bị. Tuy nhiên, khi quyết định trang bị một ống kính nào đó, chúng ta hết sức bối rối trước mê cung ống kính; từ hàng chính hãng cho đến hàng "for" và nhất là hàng lô lốc những thuật ngữ viết tắt rối rắm, bí ẩn như chính...giá thành thật sự của ống kính!!! Xin mạn phép tổng hợp, biên dịch và giải thích một số thuật ngữ/công nghệ liên quan đến ống kính máy ảnh hòng giúp các bác hiểu rõ thêm về ống kính máy ảnh và một số vấn đề liên quan. Dĩ nhiên sẽ có rất nhiều thiếu/sai sót, mong các bác góp ý.
1. Phần Một: Những thấu kính đặc biệt trong công nghệ chế tạo ống kính máy ảnh
ASPHERICAL:
Các thấu kính bình thường mang hình dạng chỏm cầu. Tuy nhiên các thấu kính hìng dạng chỏm cầu thường làm cho hình ảnh mất nét ở rìa bức ảnh do ánh sáng đi qua rìa thấu kính không hội tụ chính xác trên mặt phim/sensor. Thấu kính Aspherical được chế tạo dưới hình dạng đặc biệt để khắc phục hiện tượng này. Nói một cách đơn giản, thấu kính Aspherical làm giảm thiểu tình trạng out nét ở rìa bức ảnh và hạn chế tối đa sự khác biệt độ nét giữa tâm và rìa bức ảnh.
http://www.tamron.com/lenses/assets/images/technology/opt_aspherics.gif
APO (Apochromatic elements): Thấu kính làm giảm hiện tượng quang sai (chromatic)
Được các hãng quảng cáo/đặt những ký hiệu khác nhau. Vd: UD: Canon, ED: Nikon, LD: Tamron, APO/SLD: Sigma.... Ống kính được trang bị những thấu kính này sẽ làm tăng sự sắc nét cũng như giảm hiện tượng quang sai (chromatic aberration), nhất là đối với ống kính tele. Như chúng ta đã biết, ánh sáng là quang phổ tập hợp nhiều bước sóng có dộ dài (wave legnth) khác nhau. Đối với thấu kính thộng thường, những bước sóng này không tập trung vào một chỗ gây nên hiện tượng quang sai. Thấu kính APO được chế tạo ra để tập trung các bước sóng khác nhau vào một điểm. Tuy nhiên, đây là một công nghệ khá cao cấp do đó các hãng đều quảng cáo là ống kính của mình có sử dụng thấu kính APO nhưng chất lượng rất khác nhau.
http://www.tamron.com/lenses/assets/images/technology/opt_ldglass.gif
(Hết phần một... phù)
Atkinson
13-04-2005, 07:16 AM
Mới có vậy đã hết Phần I rồi sao hở bác Nicky? Cho phép em bổ sung thêm một chút nhé. Trước khi bắt đầu, xin có mấy nhời đã.
Đúng như bác Nicky nói, những thuật ngữ / công nghệ chế tạo lens rất đa dạng và dễ gây nhiễu thông tin cho những ai muốn tìm hiểu về chúng. Sau một thời gian lang thang trên Net, em thấy rằng các hãng đều có những ký hiệu riêng dành cho sp của mình. Trong số đó, Canon là hãng có nhiều terminology/symbol nhất, đồng thời giải thích cũng chi tiết, nhiều thông tin nhất. Cũng bởi Canon luôn là hãng tiên phong trong R&D những công nghệ mới cho lens. Vì vậy, em mạn phép dùng những thông tin liên quan đến Canon lens. Nhưng về mặt nguyên lý cũng ít nhiều có thể áp dụng cho lens nói chung.
Nếu bạn vào Website của Canon USA, khi tìm hiểu về một chiếc lens nào đó, bạn sẽ gặp một hoặc nhiều những terminology/symbol sau:
USM, AL, DO, IS, Float, CA, FTM, FP, DW-R, CaF2 - UD - S UD, I/R, EMD...
Liên quan đến Phần I này, xin bổ sung thêm một chút thông tin về Canon Lens.
AL: Aspherical Lens
Về nguyên lý chung, Nicky đã trình bày khá rõ ràng và đầy đủ.
Canon đã nghiên cứu và sx AL từ khá sớm. Năm 1971, hãng tung ra chiếc FD 55mm f/1.2 AL lens, ống kính độ mở lớn đầu tiên trên thế giới sử dụng công nghệ AL. Sau đó, AL được đưa vào sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, ngay trong lòng Canon, AL cũng có đẳng cấp khác nhau: Loại thấu kính đúc, và thấu kính "lai".
- AL thấu kính đúc: loại này có hình dạng được đúc trực tiếp từ máy nên vật liệu đồng nhất, chất lượng cao và được dùng cho các dòng high end.
- AL thấu kính "lai": phần bề mặt phi cầu được tạo bởi một lớp "nhựa tổng hợp" phủ lên trên sau khi trải qua một quá trình gia công và làm cứng bằng tia cực tím.
Nói chung, AL đã trở thành một tiêu chuẩn rất bình thường đối với Canon cũng như các brand khác. Phần lớn các lens hiện nay đều có ít nhất một aspherical element nên nó không còn là một tiêu chí mạnh trong quảng cáo thương mại.
APO: Thấu kính giảm hiện tượng quang sai.
Với Canon, đặc tính này được ký hiệu bởi thuật ngữ UD. Nhưng nhiều lens của Canon được trang bị thêm cả những UD, S-UD, CaF2 cho cùng một mục đích này.
- CaF2: Nếu chiếc Canon lens của bạn có ký hiệu này tức là nó được trang bị một thấu kính làm từ một loại vật liệu đặc biệt - Calcium Fluorite. Đây k0 phải là một loại vật liệu thủy tinh. Nhưng khi bị nung chảy ở nhiệt độ cao, CaF2 sẽ tồn tại dưới dạng những tinh thể khoáng có một đặc điểm quý báu là cho ánh sáng đi qua với độ khúc xạ cực thấp mà không một loại vật liệu thủy tinh nào có được. Đặc điểm này của CaF2 thực ra không phải là mới trong lĩnh vực quang học vì người ta đã sử dụng nó từ rất lâu để chế tạo những kính hiển vi. Nhưng để sản xuất một thấu kính CaF2 có đường kính lớn cho máy ảnh 35mm thì là cả một thách thức lớn. Cần phải áp dụng những kỹ thuật mài nhẵn, đánh bóng đặc biệt, k0 thể áp dụng như với vật liệu thủy tinh thường. Sau đó, mỗi thấu kính lại được làm sạch một cách cẩn thận bằng.... tay !? Tiêu chuẩn ưu tiên cao nhất cho độ chính xác của sản phẩm làm cho thời gian gia công một thấu kính CaF2 này lâu gấp 4 lần một thấu kính thường. Sau 3 năm lọ mọ, Canon cũng cho ra được sản phẩm đầu tiên trên thế giới sử dụng thấu kính CaF2, ống kính 300mm f/5.6, vào năm 1969.
Sự phức tạp của CaF2 buộc Canon phải quay lại với việc chế tạo các thấu kính UD từ vật liệu thủy tinh. Công nghệ chế tạo các sản phẩm quang học chất lượng cao cũng đem lại cho Canon những thành công với thấu kính UD.
CaF2 vs. UD (S-UD)
Các kỹ thuật đánh bóng, mài nhẵn, tráng phủ... tạo ra thấu kính UD giúp giảm khá nhiều hiện tượng quang sai, nhưng không triệt để. Nó vẫn tồn tại, dưới tên gọi "hiện tượng quang sai thứ cấp". Hiện tượng này trở nên nghiêm trọng hơn đối với các ống kính có tiêu cự lớn (tele & super tele).
CaF2 loại bỏ "hiện tượng quang sai thứ cấp" này cực tốt và cho kết quả tương đương với việc kết hợp 2 thấu kính UD.
http://eosseries.ifrance.com/eosseries/serieL/aberr-chromatique.jpg
S-UD (Super UD) cũng là một thấu kính thủy tinh có chất lượng cao hơn UD và gần bằng CaF2.
Chính vì vậy, CaF2, UD, S-UD chỉ xuất hiện trong những dòng ống kính high end của Canon, chủ yếu là L serie. Một vài ví dụ:
EF-S 10-22mm f/3.5-4.5 USM : 1 S-UD
EF 17-40mm f/4L USM : 1 S-UD
EF 16-35mm f/2.8L USM: 2 UD
EF 70-200mm f/2.8L (IS) USM: 4 UD
EF 70-200mm f/4L USM : 2 UD, 1 CaF2
EF 100-400mm f/4.5-5.6L IS USM: 1 S-UD, 1 CaF2
EF 180mm f/3.5L Macro USM: 3 UD
EF 300mm f/2.8L IS USM: 1 CaF2
EF 400mm f/2.8L IS USM: 2 UD, 1 CaF2
......
Source:
Canon USA (www.usa.canon.com)
EOS series (http://eosseries.ifrance.com/eosseries/infos.htm)
PS: Bác nào rảnh gõ giúp em nốt cái DO optic cho nó trọn bộ rồi còn chuyển sang phần II (Mecanic ?)
TheAmateur
13-04-2005, 02:17 PM
Một định nghĩa ngắn gọn sẽ giúp bạn hiểu rỏ kỹ thuật mới đầy thú vị của hãng Canon. Những thủy tinh thể chuyển hướng, bẻ lái ánh sáng chiếu qua thấu kính để tạo nên ảnh. Chúng ta dùng nhiều mảnh kiếng nhỏ và đặc biệt để giữ những tia sáng hội tụ thay vì trải dài thành cầu vòng 7 màu mà ta thường thấy khi ánh sáng xuyên qua mặt kính phẳng. Để đổi chiều các tia sáng có nghĩa là tia sáng đổi chiều trước khi chiếu qua ống kính. Sự đổi chiều được điều khiển bởi những mảnh chuyển hướng - những mảnh song song nhỏ xếp lớp trên bề mặt. Canon dùng hai lớp kính chuyển hướng hai mặt úp vô nhau mà có các lớp kính chuyển hướng xếp lớp ở giữa. Sự chuyển hướng ánh sáng qua nhiều lớp thấu kính điều chỉnh sự biến dạng của màu sắc (chromatic aberration) của hệ thống thấu kính và hoàn thiện khả năng tạo ảnh.
Tại sao hãng Canon lại thay đổi ống kính kiểu thử nghiệm và thật sự vật lý? Về mặt cấu trúc và sản xuất, công nghệ này cho phép tạo ra ống kính ngắn và nhẹ hơn so với các hệ thống thấu kính cùng loại. Ống kính 400mm f/4 DO IS sẻ trở thành khoảng 27 phần trăm ngắn hơn và 36 phần trăm nhẹ hơn là loại ống kính 400mm thông thường. Chất lượng ảnh của ống kính DO của Canon cũng tương đương với loạt ống kính L, đem đến cho các nhà nhiếp ảnh chất lượng ảnh rất cao.
Chú ý: Nếu một vùng rất sáng như đèn thủy ngân được chụp bằng ống kính DO, một vòng ánh sáng sẻ tạo ra xung quanh nguồn sáng, đó là do đặc điểm của ảnh qua nhiều lớp thấu kính chuyển hướng.
Cấu trúc của thấu kính gồm nhiều lớp kính chuyển hướng
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage2.jpg
Sự điều chỉnh Chromatic Aberrations bằng thấu kính gồm nhiều lớp kính chuyển hướng
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage3.jpg
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage7.jpg
Còn tiếp ...
Tài liệu dịch từ Canon website, ảnh dùng từ Canon website với mục đích phi vụ lợi
TheAmateur
13-04-2005, 02:24 PM
Sự điều chỉnh Chromatic Aberrations bằng thấu kính gồm nhiều lớp kính chuyển hướng (tiếp theo)
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage5.jpg
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage4.jpg
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage6.jpg
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/doimage8.jpg
Cái hình ảnh minh họa từ cái web của hãng Canon lộn xộn quá hy vọng các bạn hiểu được chút ít về DO.
Tài liệu dịch từ Canon website, ảnh dùng từ Canon website với mục đích phi vụ lợi
Chickenpox
14-04-2005, 01:02 AM
Tuyệt vời, cảm ơn các bác, đọc topic này đến đây cũng đã vỡ ra ối thứ, tôi đặc biệt thích những thuật ngữ kỹ thuật được dịch tiếng Việt rất hay & dễ hiểu.
Mong chóng có thêm các phần mới ....
Hoàng
hic, sao toàn canon the này ,khong thấy bác nào nói về Ok MINOLTA cho em biết với nào.
Atkinson
18-04-2005, 12:27 AM
Bác Nicky đem con bỏ chợ nhá :)
Nói về những thấu kính đặc biệt trong lens thì có lẽ hai loại thấu kính: thấu kính phi cầu (aspherical) và thấu kính giảm độ quang sai (UD, DO, ED...) là tương đối tiêu biểu. Nếu sau này có thêm những phát minh nào mới thì ta tìm hiểu và bổ sung sau vậy ha. Giờ xin mạn phép bác Nicky chuyển sang phần 2, Mechanic, cũng rất thú vị và đáng quan tâm khi tìm hiểu, chọn mua ống kính.
2.Phần hai: Những cấu trúc cơ khí đặc biệt trong công nghệ chế tạo ống kính máy ảnh
2.1. Cơ chế chống rung
Định viết chút chút về cái này, nhưng tình cờ có người chỉ cho cái link đến trang Sohoa.net, có bài viết rất chi tiết rồi. Tự thấy k0 đủ trình độ viết hay hơn tác giả này nên mạn phép copy một đoạn về đây bổ sung vào phần anh em đang thảo luận. Đáng nể là sự mạch lạc và khả năng Việt hóa rất tốt các thuật ngữ.
Không biết mình đề source & link cụ thể như vầy đã đảm bảo chưa, nếu băn khoăn thì nhờ các bác lãnh đạo forum liên hệ dùm nhá.
Source: http://sohoa.net/News/Camera/2005/04/3B9AD08B/
Trích :
Chống rung quang học
Chống rung quang học trước đây chỉ dùng chủ yếu trong các đời ống kính cao cấp dành cho máy cơ của các hãng nổi tiếng như Canon (với tên IS-Image Stabilizer - ổn định hình ảnh), Nikon (VR-Vibration Reduction - chống rung) hay Sigma (OS-Optical Stabilizer - ổn định quang học).
http://sohoa.net/News/Camera/2005/04/3B9AD08B/IS_B.jpg
Hệ thống chống rung quang học IS của Canon sử dụng công nghệ VAP.
Chống rung quang học về cơ bản là dùng một chip cảm biến để nhận biết độ rung của máy theo góc nào, từ đó gửi thông tin về cho một bộ vi xử lý điều khiển một thấu kính cơ động nằm trong lòng ống kính theo góc đó sao cho hình ảnh thu được trên CCD vẫn giữ nguyên. Có hai loại chống rung quang học chính.
Loại thứ nhất dùng công nghệ VAP (vari-angle prism - lăng kính đa góc) bao gồm hai thấu kính phẳng đặt song song hai bên, ở giữa là một loại chất lỏng đặc biệt trong suốt có vai trò như một thấu kính cơ động. Ở điều kiện bình thường, nhóm thấu kính này truyền ánh sáng thẳng. Khi camera bị rung, bộ vi xử lý điều khiển chất lỏng này theo góc và hướng bị rung của camera. Lúc này hai thấu kính bên ngoài chất lỏng không song song với nhau nữa, do đó tạo thành một hệ kính mới lái ánh sáng sao cho ảnh vẫn luôn nằm trong khuôn hình bắt sáng của CCD.
Loại còn lại dùng hai thấu kính cơ động, một có khả năng chuyển động lên xuống, một sang trái phải. Khi bộ vi xử lý nhận được thông tin máy ảnh bị rung theo một góc nào đó, sẽ điều khiển hai thấu kính này di chuyển theo góc bị lệch, từ đó cũng lái được ánh sáng vào đúng khuôn hình của CCD.
Ưu điểm của công nghệ này là hoàn toàn dùng thấu kính quang học để dẫn hướng ánh sáng chứ không tác động lên quá trình xử lý hình ảnh nên chất lượng hình ảnh vẫn được đảm bảo mà không bị suy giảm. Nhưng nhược điểm là chi phí chế tạo lại đắt và không phải người dùng nào cũng sẵn sàng bỏ tiền thêm cho một máy ảnh số với tính năng ít dùng đến trong cuộc đua giá cả máy ảnh số hiện nay.
...
Nguyễn Hà tổng hợp
Cũng theo bài viết trên thì một số dòng máy PnS cao cấp có zoom quang lớn cũng được áp dụng công nghệ chống rung quang học như trên. Ngoài ra, cũng còn có các phương pháp chống rung khác nhưng k0 liên quan đến ống kính nên k0 trích dẫn. Bác tnl có thể tìm thấy niềm tự hào về máy Minolta với công nghệ chống rung CCD.
Một số liên hệ thực tế:
- Lợi ích của ống kính chống rung (IS, mượn tạm thuật ngữ của Canon) rõ ràng phải kéo theo giá thành cao. So sánh giữa hai lens cùng loại 70-200mm f/2.8 L non IS vs. IS version thì giá cả chênh lệch khoảng 500 USD trở lên. IS version có nhiều hơn đến 5 optic elements và nặng hơn một chút (1.47kg vs. 1.31kg)
- IS lens không phải lúc nào cũng cho hình ảnh nét hơn non IS lens. Nó chỉ hữu dụng trong những trường hợp bị rung máy khi chụp ở tốc độ chậm (cầm tay và có so sánh với tiêu cự sử dụng) hoặc khi người chụp ngồi trên các vật chuyển động (tàu, xe). Còn trong trường hợp chụp ảnh tĩnh, hay camera/lens được gắn trên tripod thì cơ chế IS coi như k0 có tác dụng.
Tóm lại, nên hiểu đúng nghĩa IS là có tác dụng "làm giảm mức độ nhòe của hình ảnh do hiện tượng rung máy gây ra"
- Vì vậy, trên thân những IS lens (Canon) thường có nút bật / tắt chế độ IS để sử dụng vào những tình huống hợp lý. Kích hoạt chế độ IS cũng làm ảnh hưởng đến tốc độ lấy nét (focus) và tiêu tốn nhiều năng lượng hơn vì lúc đó hệ thống cơ khí của lens phải làm việc vất vả hơn do phải "điều động" nhiều thấu kính cùng một lúc.
nicky7803
19-04-2005, 10:38 AM
Hehe. Đâu có, oan cho em wa'. Mấy hôm nay bận quá, chẳng làm được gì cả
Bác At viết hay và chi tiết lắm. Cứu bồ mấy bài đi, vài bữa nữa thư thả em viết tiếp. :)
TheAmateur
19-04-2005, 11:33 AM
Oh tôi cũng xin lỗi, tưởng chỉ cần dịch phần DO thôi. :p
Atkinson
22-04-2005, 12:18 AM
Bổ sung thêm một chút vào cái bài của tác giả Nguyễn Hà (Sohoa.net) ở trên về IS technology.
Loại thứ nhất dùng công nghệ V.A.P kèm hình minh họa, là công nghệ áp dụng cho Canon Camcorder chứ k0 áp dụng cho ống kính máy ảnh (camera lens).
Loại thứ hai dùng 2 thấu kính cơ động mới là nguyên lý làm việc trong các IS camera lens của Canon, gọi là Shift-Method Image Stabilizer System
http://img.photobucket.com/albums/v600/MrBean/IStech.jpg
Canon khoe rằng với công nghệ này việc correct chỉ diễn ra trong 0.002 sec :O, đáng ngại!
Source:
http://www.canon.com/technology/detail/digi_video/shakecorrect_shift/index.html
Atkinson
24-04-2005, 01:24 AM
2.2. Hệ thống lấy nét tự động Auto Focus (AF)
Lĩnh vực chế tạo camera/lens bước sang một kỷ nguyên mới vào năm 1987 khi Canon tung ra dòng máy EOS (electro-optical system), đi kèm với nó là một hệ thống lens hoàn toàn mới giúp người sử dụng trong việc tự động lấy nét. Kể từ đó, tất cả các lens của Canon dùng cho máy EOS đều có ký hiệu EF (electrofocus). Dù sớm hơn, nhưng công nghệ này cũng sớm phổ biến ở tất cả các hãng khác như Nikon, Minolta, Pentax, Sigma, Tamron...
Tuy khác nhau về mặt công nghệ chế tạo, nhưng nguyên lý chung vẫn là sự tích hợp một hệ thống cơ khí truyền động trong ống kính nhằm di chuyển các thấu kính để ảnh của vật chụp rơi đúng lên bản phim (focused).
Thời gian đầu, cơ chế AF dịch chuyển các thấu kính thông qua trục truyền động dưới tác dụng của lực từ trường trong các cuộn dây (một cơ chế chuyển động cơ khí cổ điển). Đó là các công nghệ Arc-form Drive (AFD) hay Microdrive (MD). Hệ thống nặng nề, nhiều bánh răng nên tốc độ AF rất chậm, ồn và tốn nhiều năng lượng, nhất là đối với những lens có tiêu cự dài hoặc zoom lớn vì quãng đường dịch chuyển của các thấu kính xa hơn. Do đó, loại này phù hợp hơn với những lens có tiêu cự ngắn và cố định.
Việc cải thiện tốc độ AF trở nên vấn đề cấp bách, các hãng đều lao vào tìm tòi và nghiên cứu lĩnh vực này. Kết quả là sau một thời gian, trên các lens thế hệ mới đều xuất hiện những ký hiệu "lừng danh" nhấn mạnh vào khả năng AF nhanh của chúng. Đó là:
USM (Ultra Sonic Motor, động cơ "siêu thanh" - Canon),
AF-S (Auto focus Speed/Silence, HT lấy nét nhanh và êm - Nikon),
HSM (High speed Motor, động cơ tốc độ cao - Sigma)...
Thực vậy, so với thế hệ trước, những lens này đều có khả năng lấy nét nhanh, chính xác và rất êm tai.
Do k0 có tài liệu về các hãng khác, nên chỉ xin đi sâu một chút vào một số điểm đáng lưu ý của công nghệ USM - Canon.
Là hãng đầu tiên có những phát minh trong lĩnh vực này, USM lens của Canon có tốc độ focus khá nhanh nhờ cơ chế truyền động bằng những dao động ở tần số cao. Đồng thời, giảm mức tiêu thụ năng lượng và tiếng ồn gây ra do không dùng các bánh răng mà thay vào đó là các "ring USM".
Tuy nhiên, sau này USM đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng của Canon, và người tiêu dùng k0 mấy ai để ý rằng tồn tại 2 cái gọi là USM khác nhau.
- Loại thứ nhất sử dụng các "ring USM" như nói ở trên, thực sự là một điểm mạnh vượt trội của Canon so với các hãng khác. Nó được sử dụng cho những ống kính có độ mở lớn, tiêu cự dài và chất lượng cao. Điển hình là L serie. Ngoài ưu điểm trên, công nghệ này đi kèm theo tính năng FTM (full time manual), sẽ trình bày sau.
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/ultraimage1.jpg
Ring type USM
- Loại thứ hai mang tên USM nhưng thực chất là một sự cải tiến cũng đáng ngạc nhiên từ nhưng Microdrive mà sau này được mang tên MicroMotor USM. Công nghệ này tuy vẫn phải dùng những bánh răng nhưng những cải tiến về mặt cơ khí đã giúp nó đạt được độ chính xác và tốc độ khá cao. Dù sao, năng lực của loại này cũng còn kém xa "ring USM" và không support FTM.
http://www.usa.canon.com/html/eflenses/images/technology/ultraimage2.jpg
Micro Motor USM
Như vậy, Canon tung ra sản phẩm với thương hiệu USM mà k0 hề có ý định "nhắc nhở" rõ ràng với khách hàng về bản chất của nó. Tuy nhiên, hãng cũng không lạm dụng điều đó để lừa gạt người dùng mà vẫn có ký hiệu riêng cho từng loại ngay trên chính thân lens. Vì vậy, khi đứng trước một Canon lens có ký hiệu USM, các bạn chỉ cần lưu ý một điểm nhỏ sau.
- Nếu là L serie, DO lens, chắc chắn bạn có trong tay một ống kính với công nghệ "ring USM" cao cấp của Canon.
- Nếu là loại non L thì chỉ cần để ý viền màu đặc trưng cho thương hiệu USM:
+ Nếu là viền màu vàng, gồm những vạch đứt quãng thì đó cũng là "ring USM", ví dụ:
http://img.photobucket.com/albums/v600/MrBean/28105IIUSM.jpg
Canon EF 28-105mm f/3.5-5.6 II USM
+ Nếu là viền trắng liền thì USM lens đó vẫn sử dụng MicroMotor Driver, ví dụ:
http://img.photobucket.com/albums/v600/MrBean/28105USM.jpg
Canon EF 28-105mm f/4-5.6 USM
Hai ví dụ trên cũng cho thấy một trong những sự khác nhau giữa các model EF 28-105mm USM.
Hiện nay, công nghệ USM một số loại super tele cao cấp của Canon còn được cải tiến để có tốc độ AF cao hơn nữa và được coi là nhanh nhất thế giới. Điển hình như những lens: EF 300mm f/2.8 L IS, EF 400mm f/2.8 L với ký hiệu đi kèm là AF-S (bắt chước Nikon?! ). Đây cũng là một lý do tại sao Canon lens chiếm được lòng tin tuyệt đối của giới phóng viên thể thao.
Cuối cùng, một chiếc lens mà chúng ta vẫn thường ngưỡng mộ, Canon EF 50mm f/1.8 II. Lens này ngoài chất lượng thấu kính tốt, thì chẳng có USM mà vẫn dùng cơ chế AF cổ điển Microdrive do cấu trúc lens nhỏ bé. Nhờ đó mà lens này có giá khá rẻ.
Source:
www.photonotes.org
www.usa.canon.com
paganini
24-04-2005, 01:56 AM
ui cha. Giờ mới biết trong lens rắc rối vậy. Cảm ơn bài viết của các Bác. Nhưng Các Bác cho hỏi thêm về IS khi mở và tắt chế độ IS chất lượng hình có như nhau không. Hay là phải tắt khi không cần thiết
TeddyLoves
01-05-2005, 09:10 AM
Bổ sung thêm một chút vào cái bài của tác giả Nguyễn Hà (Sohoa.net) ở trên về IS technology.
Loại thứ nhất dùng công nghệ V.A.P kèm hình minh họa, là công nghệ áp dụng cho Canon Camcorder chứ k0 áp dụng cho ống kính máy ảnh (camera lens).
Loại thứ hai dùng 2 thấu kính cơ động mới là nguyên lý làm việc trong các IS camera lens của Canon, gọi là Shift-Method Image Stabilizer System
http://img.photobucket.com/albums/v600/MrBean/IStech.jpg
Canon khoe rằng với công nghệ này việc correct chỉ diễn ra trong 0.002 sec :O, đáng ngại!
Source:
http://www.canon.com/technology/detail/digi_video/shakecorrect_shift/index.html
bây giờ em mới biết là thằng 70-200 IS cho phép chậm đến 3 stops (tương ứng với mức 1/15 sec ở 70mm và 1/30 sec ở 20mm)
còn các dòng lenses khác thường là cho IS ở mức 1 đến 2 stops là tối đa.
không biết là IS trong các lens L khác lens thường ở chỗ nào nhỉ?
Atkinson
03-05-2005, 05:53 AM
2.3. FTM, I/R, IF
Việc cải tiến công nghệ canh nét nhanh và chính xác thường kéo theo những chức năng hữu dụng khác giúp việc sử dụng lens linh hoạt hơn.
FTM - Full time manual
Chức năng này có mặt ở hầu hết các lens thuộc dòng high end của các hãng lớn Canon, Nikon, Sigma, Tamron... Đặc điểm của nó là cho dù lens đang đặt ở chế độ AF (auto focus) thì người dùng vẫn có thể chủ động xoay focus ring để điểu chỉnh việc canh nét theo ý muốn. Có thể coi đó là sự tinh chỉnh của người dùng đối với AF của máy, rất hữu dụng khi chụp macro, chụp sản phẩm hoặc chân dung - những trường hợp đòi hỏi việc khống chế focus rất tỉ mỉ. So với việc phải gạt nút chuyển AF/MF thì chức năng này rõ ràng linh hoạt hơn, giúp hệ thống camera - lens k0 bị "xộc xệch" khi mọi thứ đã yên vị trong khuôn ngắm.
I/R, IF
Đều là những ký hiệu nói đến thuật ngữ Internal focus. Ở những dòng low end, mỗi khi lấy nét thì hệ thống các thấu kính phía ngoài phải dịch chuyển làm thay đổi chiều dài vật lý của lens đồng thời làm xoay lớp tiền thấu kính (front element). Nhược điểm của cơ cấu này là làm cho bụi dễ thâm nhập vào trong lens và không thuận tiện khi sử dụng kính lọc phân cực (loại Circular Polarized) gắn trên front element. Những nhược điểm này sẽ được khắc phục hoàn toàn nếu việc đó chỉ do một nhóm thấu kính nhỏ đảm nhiệm, dịch chuyển ngay trong thân lens để canh nét - Internal Focus. Thời gian canh nét cũng nhờ đó giảm bớt đáng kể.
Riêng các lens của Canon có chức năng này thì mang ký hiệu I/R, bởi trong công nghệ này, Canon cũng có hai phương pháp khác nhau.
I tức Inner focus: việc canh nét sẽ do nhóm thấu kính nằm phía trước lỗ mở (diaphragm) đảm nhiệm.
R tức rear focus: việc canh nét sẽ do nhóm thấu kính nằm phía sau lỗ mở đảm nhiệm.
Dù dùng phương pháp nào thì Canon cũng đều đánh dấu ký hiệu chung là I/R, chỉ trong phần specification của lens mới chỉ rõ Inner hay Rear. Tôi cũng chưa tìm hiểu được xem ưu nhược điểm của hai phương pháp này như thế nào.
Ví dụ:
Đại đa số các fix focal lens dưới 135mm của Canon dùng Rear focus.
http://img47.imageshack.us/img47/3986/rearfocus2sc.jpg
Zoom lens và long tele thì dùng Inner focus.
http://img110.imageshack.us/img110/4018/innerfocus0sm.jpg
Source:
www.usa.canon.com
http://www.europepress.com/lenses/canon_lenses.htm
www.canon.com/camera-museum/index.html
tdfilms
03-05-2005, 06:15 AM
Bác Atkonson viết mấy bài này công phu quá. Bravo bác cái.
2.3. FTM, I/R, IF
Việc cải tiến công nghệ canh nét nhanh và chính xác thường kéo theo những chức năng hữu dụng khác giúp việc sử dụng lens linh hoạt hơn.
FTM - Full time manual
Chức năng này có mặt ở hầu hết các lens thuộc dòng high end của các hãng lớn Canon, Nikon, Sigma, Tamron... Đặc điểm của nó là cho dù lens đang đặt ở chế độ AF (auto focus) thì người dùng vẫn có thể chủ động xoay focus ring để điểu chỉnh việc canh nét theo ý muốn. Có thể coi đó là sự tinh chỉnh của người dùng đối với AF của máy, rất hữu dụng khi chụp macro, chụp sản phẩm hoặc chân dung - những trường hợp đòi hỏi việc khống chế focus rất tỉ mỉ. So với việc phải gạt nút chuyển AF/MF thì chức năng này rõ ràng linh hoạt hơn, giúp hệ thống camera - lens k0 bị "xộc xệch" khi mọi thứ đã yên vị trong khuôn ngắm.
I/R, IF
Đều là những ký hiệu nói đến thuật ngữ Internal focus. Ở những dòng low end, mỗi khi lấy nét thì hệ thống các thấu kính phía ngoài phải dịch chuyển làm thay đổi chiều dài vật lý của lens đồng thời làm xoay lớp tiền thấu kính (front element). Nhược điểm của cơ cấu này là làm cho bụi dễ thâm nhập vào trong lens và không thuận tiện khi sử dụng kính lọc phân cực (loại Circular Polarized) gắn trên front element. Những nhược điểm này sẽ được khắc phục hoàn toàn nếu việc đó chỉ do một nhóm thấu kính nhỏ đảm nhiệm, dịch chuyển ngay trong thân lens để canh nét - Internal Focus. Thời gian canh nét cũng nhờ đó giảm bớt đáng kể.
Riêng các lens của Canon có chức năng này thì mang ký hiệu I/R, bởi trong công nghệ này, Canon cũng có hai phương pháp khác nhau.
I tức Inner focus: việc canh nét sẽ do nhóm thấu kính nằm phía trước lỗ mở (diaphragm) đảm nhiệm.
R tức rear focus: việc canh nét sẽ do nhóm thấu kính nằm phía sau lỗ mở đảm nhiệm.
Dù dùng phương pháp nào thì Canon cũng đều đánh dấu ký hiệu chung là I/R, chỉ trong phần specification của lens mới chỉ rõ Inner hay Rear. Tôi cũng chưa tìm hiểu được xem ưu nhược điểm của hai phương pháp này như thế nào.
Ví dụ:
Đại đa số các fix focal lens dưới 135mm của Canon dùng Rear focus.
Zoom lens và long tele thì dùng Inner focus.
Source:
www.usa.canon.com
http://www.europepress.com/lenses/canon_lenses.htm
apham
03-05-2005, 07:17 AM
Cám ơn bác Atkinson về bài biên soạn công phu này. Rất ý nghĩa cho những ai đang tìm hiểu về ống kính máy ảnh
Atkinson
03-05-2005, 09:59 PM
Cám ơn các bác,
Em cũng chỉ "nhai lại" của mấy thằng Tây thôi. Mời các bác bổ sung thêm các đặc điểm độc đáo của các hãng khác. Các tham chiếu của em chỉ xoay quanh Canon thôi, e hơi "thiên vị" :)
panavision
17-05-2005, 07:41 PM
em chả hiểu rõ lắm cái EF và AF ghi trên lens mà các bác nói có khac nhau như nào ? , xin bác nói rõ hơn về những chữ viết tắt kiểu như AF-D, hay lens Canon L và ko L khác nhau như nào dc ko ạ , có kêu bên topic Nikon của bác apham mà mãi ko đc trả lời
Atkinson
17-05-2005, 09:17 PM
Hi pana,
Hình như bác chỉ đặt câu hỏi mà k0 đọc lại những bài viết đã post trước thì phải.
Ký hiệu AF, EF đã được giải thích ngay trong paragraphe đầu tiền của mục 2.2, ngay đầu trang này thôi. Bác ngước lên trên là thấy.
AF-D: AF là auto focus tức tự động canh nét; D tức Distance chỉ những lens có khả năng truyền thông tin về khoảng cách tới subject (focused) để body tính toán chính xác hơn cường độ flash.
L (Canon) tức Luxury ký hiệu cho những lens cao cấp (professional) cao từ chất lượng đến giá cả.
Good luck.
11002
30-12-2005, 09:08 AM
Anh Atkinson cho hỏi: Công nghệ Ring USM của 17-40mm f/4 và Ring USM*2 của 16-35mm f/2.8 có khác nhau không? Chi tiết và độ sắc nét của 2 lens này có khác nhau không?
http://vnphoto.net/data/p1/lens-canon_6935.jpg
Mong tin
11002
Atkinson
12-01-2006, 06:45 AM
Anh Atkinson cho hỏi: Công nghệ Ring USM của 17-40mm f/4 và Ring USM*2 của 16-35mm f/2.8 có khác nhau không? Chi tiết và độ sắc nét của 2 lens này có khác nhau không?
Mong tin
11002
Làm gì có công nghệ "*2" và "k0 *" hả bác. Đó chỉ là cái chú thích (*2, *3,...,*12) thôi. Bác quote cái bảng trên mà k0 đọc kỹ toàn bộ là sao?
*2: Mechanical full-time manual focusing built-in.
Có điều cũng hơi thắc mắc là nhiều lens có FTM mà k0 thấy note. K0 hiểu cái *2 nhấn mạnh vào cái gì, chẳng nhẽ nhấn mạnh vào "built - in" vs. "built-out" :D :D :D
Chi tiết và độ sắc nét thì EF 16-35mm f/2.8 tốt hơn EF 17-40mm f/4.0. Có thể kiểm chứng qua MTF chart dưới đây, tuy hơi khập khiễng về focal và wide open một chút.
MTF chart của EF 16-35mm f/2.8
http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef_16-35_28mtf1.gif http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef_16-35_28mtf2.gif
MTF chart của EF 17-40mm f/4.0
http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef17-40_f4LU.gif http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef17-40_f4LUmtf2.gif
K0 hiểu sao Canon k0 có test ở 30lp/mm với EF 17-40mm f/4.0, chẳng nhẽ k0 chụp nổi thì 4` quá (j/k) trong khi các lens dỏm (rẻ) hơn thì vẫn có. :):(
11002
12-01-2006, 07:30 AM
Cám ơn Anh Atkinson nhiều.
Atkinson
01-03-2006, 05:34 AM
3. MTF chart (Modulation Transfer Function chart)
Đây là một phương pháp kiểm tra bằng thực nghiệm để đánh giá/so sánh độ nét (sharpness) và độ tương phản (contrast) của ống kính. Để hiểu rõ khái niệm sharpness/contrast của lens cũng khá phức tạp. Tuy nhiên những điều chúng ta thường cảm nhận về chất lượng ống kính như "chụp bén" , tương phản tốt cũng tương đồng với chính những khái niệm này. Vì là cảm nhận nên mỗi người mỗi khác, điều kiện thử nghiệm cũng k0 giống nhau. Do đó, MTF chart là một cách lượng hóa chính xác nhất để đánh giá các tiêu chí này.
K0 có 1 ống kính nào là hoàn hảo, trong quá trình truyền ánh sáng đều có ít nhiều "tổn thất" (loss). Việc xây dựng MTF là để đánh giá những "tổn thất" này, hay nói ngược lại, là khả năng truyền tải ánh sáng của ống kính.
MTF chart được xây dựng trong các Lab của nhà sản xuất. Quy trình cụ thể k0 giống nhau và cũng k0 tiết lộ. Điều đó cũng k0 quan trọng lắm. Ở đây, tôi chỉ muốn trao đổi với các bạn về cách đọc hiểu MTF chart của một ống kính.
3.1 Phương pháp
Sharpness/contrast của ống kính được đánh giá thông qua việc ghi lại hình ảnh của một dãy liên tục các vạch đen và trắng xen kẽ với mật độ khác nhau, hướng khác nhau và tại các tiêu cự, khẩu độ khác nhau của lens.
3.2 MTF chart
http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef_50_14mtf.gif
Canon EF 50mm f/1.4
Trên đây là ví dụ của MTF chart của lens Canon EF 50mm f/1.4
3.2.1 Các trục
- Trục tung biểu diễn các giá trị từ 0 - 1, thể hiện khả năng truyền ánh sáng của lens.
0 = 0% (tổn thất hoàn toàn)
1 = 100% (ánh sáng đi qua lens 100% - trường hợp lý tưởng)
- Trục hoành biểu diễn các giá trị từ 0 - 20, đơn vị mm. Thể hiện khoảng cách so với tâm của ống kính. Đây là lens dùng cho máy 35mm nên khoảng cách này được tính từ tâm ống kính, trùng với tâm bản film, cho tới điểm xa nhất là góc của bản film.
0 = tại tâm ống kính
Film có kích thước 24x36mm nên đường chéo ~ 43.27mm. Do ống kính có tính đối xứng, đồ thị chỉ cần lấy 1 nửa nên điểm xa nhất tại góc bản phim sẽ có giá trị chính xác là 43.27 : 2 = 21.6mm
3.2.2 Các đường
MTF chart gồm 8 đường chia làm 3 cặp đôi một:
- Đường đậm (thick lines) là kết quả của mẫu có mật độ 10lpm (lines per millimetre). Đường mỏng (thin lines) là kết quả của mẫu có mật độ 30lpm.
lpm: là mật độ số các vạch đen trắng xen kẽ nhau trong 1 millimetre. Giá trị 10lpm ở đây thực chất sẽ có tổng cộng 20 lines (10 black lines và 10 white lines). Do đó, họ còn dùng đơn vị lppm (lines pair per millimetre)
Kết quả tại mật độ cao sẽ đánh giá độ phân giải (resolution) của lens. Tức khả năng phân biệt giữa các chi tiết.
Kết quả tại mật độ thấp đánh giá độ tương phản của lens. Khả năng phân biệt độ chênh lệch tại mép giữa vạch đen và vạch trắng.
Giá trị 10 và 30 được sử dụng căn cứ vào nhiều yếu tố khác như độ phân giải của film, máy in và khả năng phân biệt chi tiết của mắt người. Có thể làm test ở 100lpm nhưng điều đó vượt quá khả năng in ấn cũng như khả năng phân biệt chi tiết của mắt người. Ở 5lpm thì việc phân tích contrast ít chính xác hơn.
- Đường màu đen (black lines) là kết quả khi ống kính mở ở khẩu độ lớn nhất (f/1.4 e.g). Đường màu xanh (blue lines) là kết quả khi ống kính ở f/8 (khẩu độ cho chất lượng hình ảnh tốt nhất).
- Đường liền nét (solid lines) là kết quả khi các vạch đen-trắng có hướng song song với đường chéo của bản film (S lines). Đường đứt quãng (dotted lines) là khi hướng vuông góc với đường chéo (M lines).
Tóm tắt tính chất các mẫu đường trong hình sau:
http://www.luminous-landscape.com/images-10/mer-sag.jpg
Với zoom lens, đồ thị của 8 đường trên được lặp lại tại tiêu cự lớn nhất và tiêu cự nhỏ nhất. Do đó, MTF chart của zoom lens gồm 2 đồ thị, ví dụ
http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef_16-35_28mtf1.gif http://consumer.usa.canon.com/app/images/lens/ef_16-35_28mtf2.gif
MTF chart của EF 16-35mm f/2.8
3.3 Quan sát và so sánh
Những nhận xét cơ bản đối với MTF chart bất kỳ:
- Chất lượng ống kính giảm dần từ tâm ra mép,
- Tiêu cự tele cho độ chi tiết và tương phản cao hơn tại tiêu cự wide,
- Khẩu độ f/8 luôn cho chất lượng ảnh tốt hơn khẩu độ lớn nhất,
- Đối với S lines và M lines, khi cố định các tính chất khác (xanh - đen, đậm - mỏng) thì những đường này càng gần nhau, lens sẽ có bokeh càng đẹp (điểm này hơi fascinating, k0 nhận ra được trực quan của đồ thị mà là theo kết luận của nhà SX),
- Khi sử dụng với máy D-SLR có crop factor 1.x thì ta chỉ xem xét đến các giá trị trên trục hoành từ 0 đến 21.6 : 1.x. Ví dụ như với máy 1.6x thì chỉ cần quan sát đến vị trí ~ 13.5mm; k0 phải lo phần mép ảnh "chất lượng kém" nữa ;).
Khi so sánh MTF chart giữa 2 lens cụ thể thì phải lưu ý một số điểm sau:
- Phải cùng tiêu cự, hoặc tiêu cự gần bằng nhau. Nói cách khác là cùng range,
- Nếu có cùng khẩu độ lớn nhất thì so sánh triệt để hơn. Nếu k0, thì so sánh ở khẩu độ f/8,
- MTF chart của 2 hãng khác nhau cũng k0 chắc có thể so sánh được vì các yếu tố thực nghiệm có thể khác nhau,
- Cuối cùng, MTF chart chỉ duy nhất phản ánh khả năng truyền ánh sáng thông qua đó đánh giá độ tương phản và độ chi tiết của ống kính. Các yếu tố khác như màu sắc, flare, distortion, vignetting và đặc biệt như tốc độ focus, chống rung đều k0 tính đến.
xichlo
01-03-2006, 09:45 AM
Cảm ơn bác Atk đã viết cho một bài về MTF chart , biết đọc MTF chart cũng rất cần thiết cho những người chơi ảnh nhưng khá nhiều bác vẫn chưa nắm rõ cách đọc.
lamvien
01-03-2006, 10:54 AM
Thanks Atkinson chia sẽ những kiến thức bổ ích.
Apomethe
14-05-2008, 04:14 AM
Các chart như ở trang dưới đây thì đọc như thế nào vậy các bác?
http://www.photozone.de/Reviews/46-nikon--nikkor-aps-c/361-nikkor-af-s-14-24mm-f28-g-ed-n-test-report--review?start=1
casonic
15-05-2008, 06:23 AM
Cám ơn các bác up lại
khang9x
15-05-2008, 08:20 AM
bài viết rất hay, cung cấp nhiều thông tin bổ ích.Thanks Atkinson.
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.