fRzzy
05-11-2012, 12:59 AM
Bài này em viết nhanh, không kiểm tra kỹ, các bác thấy sai chỗ nào cứ bảo em một tiếng để em sửa ạ.
Ảnh minh họa không có bởi em cũng không thấy chỗ nào cần, bác nào thấy nên bổ sung ở đâu cứ nói, em sẽ cố gắng thêm cho phù hợp.
-----
Đã qua rồi cái thời muốn chụp ảnh người ta phải ngắm ngắm vặn vặn để lấy nét. Hệ thống lấy nét tự động đã thống trị thế giới máy ảnh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì lấy nét tự động cũng vẫn có ích, chỉ là ít hay nhiều thôi. Để có thể điều khiển được ống kính tới vị trí đúng để lấy nét, máy ảnh có hai phương án (chính) để đánh giá chủ thể đã nét hay chưa, phase-detection và contrast-detection (PDAF và CDAF). Nếu bạn quan tâm hai phương án này ưu khuyết ra sao, bài viết này có lẽ sẽ có ích cho bạn.
Lưu ý: Tôi cũng đã dự kiến sẽ giải thích cụ thể hai phương án này làm việc ra sao, nhưng khi bắt tay vào viết bài mới nhận ra rằng để diễn xuôi ra thành lời cái vấn đề này nó khó khăn quá, nên đành dừng lại ở việc so sánh kết quả của hai phương án. Làm thế nào mà hai phương án tính toán này ra được kết quả của chúng xin hẹn vào một dịp khác khi tôi có thể viết được một cách tốt hơn. Bên cạnh đó, bài viết này cũng đơn giản hóa quá trình lấy nét đi rất nhiều, cốt yếu chỉ để nhấn mạnh vào sự khác nhau của chúng.
Khả năng của PDAF
Ngay lập tức có thể xác định được chủ thể đã nét hay chưa mà không cần dịch chuyển ống kính.
Xác định được ống kính cần phải chạy tới, hay chạy lui để lấy được nét.
Xác định được ống kính cần phải chạy bao xa (tới hoặc lui) để lấy được nét.
Không xác định được thực sự hình ảnh trên cảm biến ảnh đã nét hay chưa (do cảm biến lấy nét độc lập với cảm biến hình ảnh)
Chỉ lấy nét được tại vị trí có cảm biến lấy nét.
Khả năng của CDAF
Không xác định được chủ thể đã nét hay chưa nếu không thử di chuyển ống kính.
Không biết ống kính cần phải di chuyển về hướng nào để lấy được nét.
Không biết ống kính phải di chuyển bao xa để đến được chỗ cần tới.
Sử dụng cảm biến hình ảnh để đánh giá độ nét nên khi đã khóa nét được thì chắc chắn chính xác.
Có thể lấy nét tại bất kỳ vị trí nào trên khung hình.
So sánh hiệu quả giữa hai phương án
Do PDAF có thể xác định được rõ ràng ống kính sẽ phải ở vị trí nào để lấy được đúng nét, nên ngay khi lệnh lấy nét được kích hoạt. Cảm biến hình ảnh chỉ cần ra lệnh cho ống kính chạy một mạch tới đúng vị trí rồi dừng lại.
Trong trường hợp của CDAF, việc xác định độ nét thông qua việc đánh giá độ tương phản của hình ảnh trên cảm biến, tương phản càng cao thì hình ảnh càng nét. Do vậy, trước tiên ống kính phải chạy một chút về một phía nào đó rồi sau đó sẽ chạy tiếp hay chạy ngược lại nếu độ tương phản giảm. Khi đến vị trí đạt được độ tương phản cao nhất, ống kính sẽ vẫn chạy tiếp cho tới khi độ tương phản giảm đi (cho thấy rằng nó đã chạy qua rồi) thì cảm biến mới ra lệnh cho ống kính chạy ngược lại một chút.
Có thể thấy, về lý thuyết:
CDAF sẽ không đạt được tốc độ lấy nét nhanh như PDAF bởi cảm biến phải tính toán trong suốt quá trình di chuyển ống kính. Bên cạnh đó, khoảng cách ống kính cần phải di chuyển sẽ dài hơn so với phương án PDAF.
PDAF sẽ không đạt được độ chính xác như CDAF bởi nó dùng cảm biến lấy nét để xác định độ nét, bên cạnh đó nó phụ thuộc vào tính chính xác của hệ thống cơ học điều khiển các thấu kính để đưa các thấu kính tới vị trí cần thiết. Nếu hệ thống cơ học này bị sai lệch vì lý do nào đó thì sẽ xảy ra hiện tượng back-focus hay front-focus (nói chung là không chính xác). Về phần CDAF, nó dùng chính cảm biến hình ảnh để xác định đâu là vị trí nét nhất nên khi nó thấy nét nhất, thì đó chính là điểm nét nhất, bất kể hệ thống cơ học của ống kính có sai lệch tới đâu.
CDAF cho khả năng lựa chọn điểm lấy nét tự do hơn, bất kỳ vị trí nào trên khung hình.
CDAF cho phép các công nghệ lựa chọn điểm lấy nét thông minh hơn ví dụ như ưu tiên lấy nét vào khuôn mặt, hay vào mắt (thậm chí mắt trái hay phải)
PDAF mang lại khả năng khóa nét vào chủ thể đang chuyển động do nó biết được hướng chuyển động của chủ thể và cả tốc độ chuyển động nữa.
Trên thực tế:
Do cách di chuyển các thấu kính lấy nét nên các ống kính được tối ưu cho PDAF để đạt được tốt độ nhanh nhất sẽ sử dụng các moteur sóng siêu âm (sử dụng sự rung động với tần số rất cao để di chuyển thấu kính) còn các ống kính tối ưu cho CDAF lại sử dụng các moteur stepper (có thể di chuyển tới lui liên tục theo từng bước nhỏ) - ta có thể hiểu nôm na là thấu kính lấy nét của các ống tối ưu cho PDAF thì tốc độ nhanh nhưng gia tốc thấp, còn trên các ống tối ưu cho CDAF thì tốc độ không nhanh nhưng gia tốc cao hơn. Cả hai loại moteur này đều làm tốt việc của nó, do vậy tốc độ lấy nét giữa hai loại ống kính này có thể nói là tương đương nhau.
Do PDAF không cần phải kiểm tra độ nét của hình ảnh song song với việc di chuyển thấu kính nên để tăng tốc độ lấy nét, CDAF phải tăng tốc quá trình kiểm tra này, nó kiểm tra càng nhanh thì thấu kính càng ít phải chờ đợi để biết xem cần phải tiếp tục di chuyển như thế nào. Đây là nguyên nhân chính làm cho CDAF luôn tỏ ra chậm chạp so với PDAF, trong thời gian gần đây, một số hệ thống CDAF ưu việt hơn có tần số đọc hình ảnh từ cảm biến cao hơn (lên tới 240 lần/s) cùng với bộ xử lý hình ảnh nhanh hơn đã mang lại tốc độ lấy nét rất cao.
Do vậy, không phải cứ là PDAF thì sẽ nhanh hơn CDAF mà thực tế là CDAF có thể mang lại tốc độ lấy nét tương đương với PDAF hoặc thậm chí nhanh hơn trong một vài trường hợp*. Điều cần quan tâm là ống kính được tối ưu cho phương pháp lấy nét nào và bộ cảm biến lấy nét hoạt động tốt ra sao.
Tính chính xác của PDAF mặc dù trên lý thuyết là thấp hơn CDAF, nhưng trong thực tế, sự sai lệch này hiếm khi xảy ra, cá nhân tôi đã dùng qua không biết bao nhiêu ống kính nhưng chưa một lần nhận thấy sự sai lệch này trên hình ảnh. Một số model máy ảnh tử tế còn cho phép người dùng tinh chỉnh khoảng cách lấy nét bị lệch đối với từng ống kính, do vậy đây không phải là điều các bạn nên bận tâm.
Mặc dù các model sử dụng PDAF hiện tại thường được trang bị rất nhiều cảm biến lấy nét, tương đương với rất nhiều điểm lấy nét, nhưng xét về khả năng tự do lựa chọn điểm lấy nét, các model sử dụng phương án CDAF vẫn nổi trội hơn, nhất là đối với các model cao cấp. Sự tự do này còn cho phép lựa chọn điểm lấy nét tự động một cách rất thông minh như lấy nét vào (các) khuôn mặt, lấy nét vào mắt (trái, phải hoặc mắt nào gần hơn). Tuy nhiên đối với người dùng có kinh nghiệm, sử dụng PDAF hoàn toàn có khả năng lấy nét như ý muốn. Tóm lại, đặc điểm này tuy lợi thế nghiêng về CDAF nhưng hiệu quả thực tế phụ thuộc vào kinh nghiệm của người dùng.
Đối với nhu cầu chụp ảnh các đối tượng di chuyển liên tục như chụp thể thao, chụp động vật, chụp trẻ em... PDAF thể hiện ưu thế hoàn toàn, cả trên lý thuyết lẫn thực tế. Nói như vậy không có nghĩa là nếu bạn muốn chụp ảnh các con của mình thì phải mua máy có hệ thống PDAF mới được, các hệ thống CDAF tiên tiến nhất có thể đáp ứng được các nhu cầu này đủ tốt để bạn không cần phải quá lo lắng về nó.
Tổng kết lại
Về tốc độ bắt nét: PDAF có ưu thế hơn một chút
Về độ chính xác: CDAF có ưu thế hơn một chút
Về khả năng lựa chọn điểm lấy nét: CDAF có ưu thế hơn một chút
Về khả năng khóa nét chủ thể chuyển động: PDAF có ưu thế hơn rất nhiều
Điều bạn cần quan tâm:
Hầu hết các model PDAF đều đủ tốt cho nhu cầu của bạn bởi phương án này đã rất trưởng thành, điểm khác biệt giữa chúng chủ yếu là số lượng điểm lấy nét, tốc độ bắt nét và khả năng khóa nét chủ thể chuyển động. Nhưng bạn có thể yên tâm là nếu bạn cần phải hỏi rằng model nào phù hợp với nhu cầu của bạn thì câu trả lời sẽ là model nào cũng được. Bởi nhóm người dùng cao cấp mới cần một hệ thống PDAF thực sự ưu việt, và họ thì không cần hỏi câu này.
Các model CDAF càng mới thì càng hoạt động tốt, các model ra mắt trong khoảng 1 năm trở lại đây đều có tốc độ bắt nét đủ dùng cho phần đông mọi người, nhưng tốt hơn cả là nên tham khảo ý kiến người khác để biết rõ hơn, bài viết này không thể liệt kê cụ thể.
Lưu ý sau khi đọc bài viết:
Trong bài viết tôi có dùng lẫn lộn hai khái niệm ống kính và thấu kính khi nói tới chuyện di chuyển để lấy nét, các bạn vui lòng hiểu chúng như một. Chúng đều chỉ việc di chuyển cả hệ thống các thấu kính hoặc một vài thấu kính để thay đổi focus plane nhằm đạt được mục đích lấy nét vào chủ thể đang được lựa chọn.
Tôi có đơn giản hóa vấn đề đi khá nhiều, đơn cử là PDAF có lượng giá sự thay đổi của hình ảnh trên cảm biến lấy nét chứ không phải chỉ tính toán một lần, với tần số lượng giá cũng như băng thông dữ liệu khá lớn từ cảm biến, dẫn đến sự khác biệt giữa các model PDAF cấp thấp và cấp cao. Nhưng do mục đích bài viết cố gắng đơn giản đến hết mức có thể nên tạm gạt đi một vài chi tiết kỹ thuật không quá ảnh hưởng tới hiệu quả thực tế (do phần đông người dùng không dùng tới cách máy chuyên nghiệp cỡ như 1D hay D4)
Bài viết không đề cập tới hệ thống lấy nét kết hợp giữa PDAF và CDAF. Lý do là tôi chưa đủ kinh nghiệm thực tế để viết về vấn đề này, bài viết sẽ được cập nhật ngay khi có thể. Một cách ngắn gọn, về lý thuyết đây là phương án tối ưu nhất, nhưng như mọi lý thuyết khác, để đạt được hiệu quả thực tế như lý thuyết sẽ cần thời gian. Lời khuyên của tôi, không nên phát cuồng lên vì hệ thống kết hợp này vội mà hãy dành thêm thời gian để đánh giá, minh chứng: Nikon 1 hoạt động rất tốt, Canon OES M hoạt động tầm thường, NEX-6 chưa thấy thể hiện sự ưu việt.
* Trong một vài trường hợp hiếm gặp, CDAF có thể lấy nét dễ hơn (do đó nhanh hơn) khi điểm lấy nét được đặt đúng vị trí thuận lợi, ngược lại đối với PDAF cũng vậy. Nhưng các trường hợp này khá hiểm gặp nên các bạn không cần quá quan tâm. Chỉ cần lưu ý đối với PDAF thì nên focus vào các đường liền mạch, còn với CDAF thì nên focus vào bề mặt có tương phản, ví dụ như CDAF thì dễ lấy nét vào quần lót có chấm bi hơn là PDAF!!!
Ảnh minh họa không có bởi em cũng không thấy chỗ nào cần, bác nào thấy nên bổ sung ở đâu cứ nói, em sẽ cố gắng thêm cho phù hợp.
-----
Đã qua rồi cái thời muốn chụp ảnh người ta phải ngắm ngắm vặn vặn để lấy nét. Hệ thống lấy nét tự động đã thống trị thế giới máy ảnh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì lấy nét tự động cũng vẫn có ích, chỉ là ít hay nhiều thôi. Để có thể điều khiển được ống kính tới vị trí đúng để lấy nét, máy ảnh có hai phương án (chính) để đánh giá chủ thể đã nét hay chưa, phase-detection và contrast-detection (PDAF và CDAF). Nếu bạn quan tâm hai phương án này ưu khuyết ra sao, bài viết này có lẽ sẽ có ích cho bạn.
Lưu ý: Tôi cũng đã dự kiến sẽ giải thích cụ thể hai phương án này làm việc ra sao, nhưng khi bắt tay vào viết bài mới nhận ra rằng để diễn xuôi ra thành lời cái vấn đề này nó khó khăn quá, nên đành dừng lại ở việc so sánh kết quả của hai phương án. Làm thế nào mà hai phương án tính toán này ra được kết quả của chúng xin hẹn vào một dịp khác khi tôi có thể viết được một cách tốt hơn. Bên cạnh đó, bài viết này cũng đơn giản hóa quá trình lấy nét đi rất nhiều, cốt yếu chỉ để nhấn mạnh vào sự khác nhau của chúng.
Khả năng của PDAF
Ngay lập tức có thể xác định được chủ thể đã nét hay chưa mà không cần dịch chuyển ống kính.
Xác định được ống kính cần phải chạy tới, hay chạy lui để lấy được nét.
Xác định được ống kính cần phải chạy bao xa (tới hoặc lui) để lấy được nét.
Không xác định được thực sự hình ảnh trên cảm biến ảnh đã nét hay chưa (do cảm biến lấy nét độc lập với cảm biến hình ảnh)
Chỉ lấy nét được tại vị trí có cảm biến lấy nét.
Khả năng của CDAF
Không xác định được chủ thể đã nét hay chưa nếu không thử di chuyển ống kính.
Không biết ống kính cần phải di chuyển về hướng nào để lấy được nét.
Không biết ống kính phải di chuyển bao xa để đến được chỗ cần tới.
Sử dụng cảm biến hình ảnh để đánh giá độ nét nên khi đã khóa nét được thì chắc chắn chính xác.
Có thể lấy nét tại bất kỳ vị trí nào trên khung hình.
So sánh hiệu quả giữa hai phương án
Do PDAF có thể xác định được rõ ràng ống kính sẽ phải ở vị trí nào để lấy được đúng nét, nên ngay khi lệnh lấy nét được kích hoạt. Cảm biến hình ảnh chỉ cần ra lệnh cho ống kính chạy một mạch tới đúng vị trí rồi dừng lại.
Trong trường hợp của CDAF, việc xác định độ nét thông qua việc đánh giá độ tương phản của hình ảnh trên cảm biến, tương phản càng cao thì hình ảnh càng nét. Do vậy, trước tiên ống kính phải chạy một chút về một phía nào đó rồi sau đó sẽ chạy tiếp hay chạy ngược lại nếu độ tương phản giảm. Khi đến vị trí đạt được độ tương phản cao nhất, ống kính sẽ vẫn chạy tiếp cho tới khi độ tương phản giảm đi (cho thấy rằng nó đã chạy qua rồi) thì cảm biến mới ra lệnh cho ống kính chạy ngược lại một chút.
Có thể thấy, về lý thuyết:
CDAF sẽ không đạt được tốc độ lấy nét nhanh như PDAF bởi cảm biến phải tính toán trong suốt quá trình di chuyển ống kính. Bên cạnh đó, khoảng cách ống kính cần phải di chuyển sẽ dài hơn so với phương án PDAF.
PDAF sẽ không đạt được độ chính xác như CDAF bởi nó dùng cảm biến lấy nét để xác định độ nét, bên cạnh đó nó phụ thuộc vào tính chính xác của hệ thống cơ học điều khiển các thấu kính để đưa các thấu kính tới vị trí cần thiết. Nếu hệ thống cơ học này bị sai lệch vì lý do nào đó thì sẽ xảy ra hiện tượng back-focus hay front-focus (nói chung là không chính xác). Về phần CDAF, nó dùng chính cảm biến hình ảnh để xác định đâu là vị trí nét nhất nên khi nó thấy nét nhất, thì đó chính là điểm nét nhất, bất kể hệ thống cơ học của ống kính có sai lệch tới đâu.
CDAF cho khả năng lựa chọn điểm lấy nét tự do hơn, bất kỳ vị trí nào trên khung hình.
CDAF cho phép các công nghệ lựa chọn điểm lấy nét thông minh hơn ví dụ như ưu tiên lấy nét vào khuôn mặt, hay vào mắt (thậm chí mắt trái hay phải)
PDAF mang lại khả năng khóa nét vào chủ thể đang chuyển động do nó biết được hướng chuyển động của chủ thể và cả tốc độ chuyển động nữa.
Trên thực tế:
Do cách di chuyển các thấu kính lấy nét nên các ống kính được tối ưu cho PDAF để đạt được tốt độ nhanh nhất sẽ sử dụng các moteur sóng siêu âm (sử dụng sự rung động với tần số rất cao để di chuyển thấu kính) còn các ống kính tối ưu cho CDAF lại sử dụng các moteur stepper (có thể di chuyển tới lui liên tục theo từng bước nhỏ) - ta có thể hiểu nôm na là thấu kính lấy nét của các ống tối ưu cho PDAF thì tốc độ nhanh nhưng gia tốc thấp, còn trên các ống tối ưu cho CDAF thì tốc độ không nhanh nhưng gia tốc cao hơn. Cả hai loại moteur này đều làm tốt việc của nó, do vậy tốc độ lấy nét giữa hai loại ống kính này có thể nói là tương đương nhau.
Do PDAF không cần phải kiểm tra độ nét của hình ảnh song song với việc di chuyển thấu kính nên để tăng tốc độ lấy nét, CDAF phải tăng tốc quá trình kiểm tra này, nó kiểm tra càng nhanh thì thấu kính càng ít phải chờ đợi để biết xem cần phải tiếp tục di chuyển như thế nào. Đây là nguyên nhân chính làm cho CDAF luôn tỏ ra chậm chạp so với PDAF, trong thời gian gần đây, một số hệ thống CDAF ưu việt hơn có tần số đọc hình ảnh từ cảm biến cao hơn (lên tới 240 lần/s) cùng với bộ xử lý hình ảnh nhanh hơn đã mang lại tốc độ lấy nét rất cao.
Do vậy, không phải cứ là PDAF thì sẽ nhanh hơn CDAF mà thực tế là CDAF có thể mang lại tốc độ lấy nét tương đương với PDAF hoặc thậm chí nhanh hơn trong một vài trường hợp*. Điều cần quan tâm là ống kính được tối ưu cho phương pháp lấy nét nào và bộ cảm biến lấy nét hoạt động tốt ra sao.
Tính chính xác của PDAF mặc dù trên lý thuyết là thấp hơn CDAF, nhưng trong thực tế, sự sai lệch này hiếm khi xảy ra, cá nhân tôi đã dùng qua không biết bao nhiêu ống kính nhưng chưa một lần nhận thấy sự sai lệch này trên hình ảnh. Một số model máy ảnh tử tế còn cho phép người dùng tinh chỉnh khoảng cách lấy nét bị lệch đối với từng ống kính, do vậy đây không phải là điều các bạn nên bận tâm.
Mặc dù các model sử dụng PDAF hiện tại thường được trang bị rất nhiều cảm biến lấy nét, tương đương với rất nhiều điểm lấy nét, nhưng xét về khả năng tự do lựa chọn điểm lấy nét, các model sử dụng phương án CDAF vẫn nổi trội hơn, nhất là đối với các model cao cấp. Sự tự do này còn cho phép lựa chọn điểm lấy nét tự động một cách rất thông minh như lấy nét vào (các) khuôn mặt, lấy nét vào mắt (trái, phải hoặc mắt nào gần hơn). Tuy nhiên đối với người dùng có kinh nghiệm, sử dụng PDAF hoàn toàn có khả năng lấy nét như ý muốn. Tóm lại, đặc điểm này tuy lợi thế nghiêng về CDAF nhưng hiệu quả thực tế phụ thuộc vào kinh nghiệm của người dùng.
Đối với nhu cầu chụp ảnh các đối tượng di chuyển liên tục như chụp thể thao, chụp động vật, chụp trẻ em... PDAF thể hiện ưu thế hoàn toàn, cả trên lý thuyết lẫn thực tế. Nói như vậy không có nghĩa là nếu bạn muốn chụp ảnh các con của mình thì phải mua máy có hệ thống PDAF mới được, các hệ thống CDAF tiên tiến nhất có thể đáp ứng được các nhu cầu này đủ tốt để bạn không cần phải quá lo lắng về nó.
Tổng kết lại
Về tốc độ bắt nét: PDAF có ưu thế hơn một chút
Về độ chính xác: CDAF có ưu thế hơn một chút
Về khả năng lựa chọn điểm lấy nét: CDAF có ưu thế hơn một chút
Về khả năng khóa nét chủ thể chuyển động: PDAF có ưu thế hơn rất nhiều
Điều bạn cần quan tâm:
Hầu hết các model PDAF đều đủ tốt cho nhu cầu của bạn bởi phương án này đã rất trưởng thành, điểm khác biệt giữa chúng chủ yếu là số lượng điểm lấy nét, tốc độ bắt nét và khả năng khóa nét chủ thể chuyển động. Nhưng bạn có thể yên tâm là nếu bạn cần phải hỏi rằng model nào phù hợp với nhu cầu của bạn thì câu trả lời sẽ là model nào cũng được. Bởi nhóm người dùng cao cấp mới cần một hệ thống PDAF thực sự ưu việt, và họ thì không cần hỏi câu này.
Các model CDAF càng mới thì càng hoạt động tốt, các model ra mắt trong khoảng 1 năm trở lại đây đều có tốc độ bắt nét đủ dùng cho phần đông mọi người, nhưng tốt hơn cả là nên tham khảo ý kiến người khác để biết rõ hơn, bài viết này không thể liệt kê cụ thể.
Lưu ý sau khi đọc bài viết:
Trong bài viết tôi có dùng lẫn lộn hai khái niệm ống kính và thấu kính khi nói tới chuyện di chuyển để lấy nét, các bạn vui lòng hiểu chúng như một. Chúng đều chỉ việc di chuyển cả hệ thống các thấu kính hoặc một vài thấu kính để thay đổi focus plane nhằm đạt được mục đích lấy nét vào chủ thể đang được lựa chọn.
Tôi có đơn giản hóa vấn đề đi khá nhiều, đơn cử là PDAF có lượng giá sự thay đổi của hình ảnh trên cảm biến lấy nét chứ không phải chỉ tính toán một lần, với tần số lượng giá cũng như băng thông dữ liệu khá lớn từ cảm biến, dẫn đến sự khác biệt giữa các model PDAF cấp thấp và cấp cao. Nhưng do mục đích bài viết cố gắng đơn giản đến hết mức có thể nên tạm gạt đi một vài chi tiết kỹ thuật không quá ảnh hưởng tới hiệu quả thực tế (do phần đông người dùng không dùng tới cách máy chuyên nghiệp cỡ như 1D hay D4)
Bài viết không đề cập tới hệ thống lấy nét kết hợp giữa PDAF và CDAF. Lý do là tôi chưa đủ kinh nghiệm thực tế để viết về vấn đề này, bài viết sẽ được cập nhật ngay khi có thể. Một cách ngắn gọn, về lý thuyết đây là phương án tối ưu nhất, nhưng như mọi lý thuyết khác, để đạt được hiệu quả thực tế như lý thuyết sẽ cần thời gian. Lời khuyên của tôi, không nên phát cuồng lên vì hệ thống kết hợp này vội mà hãy dành thêm thời gian để đánh giá, minh chứng: Nikon 1 hoạt động rất tốt, Canon OES M hoạt động tầm thường, NEX-6 chưa thấy thể hiện sự ưu việt.
* Trong một vài trường hợp hiếm gặp, CDAF có thể lấy nét dễ hơn (do đó nhanh hơn) khi điểm lấy nét được đặt đúng vị trí thuận lợi, ngược lại đối với PDAF cũng vậy. Nhưng các trường hợp này khá hiểm gặp nên các bạn không cần quá quan tâm. Chỉ cần lưu ý đối với PDAF thì nên focus vào các đường liền mạch, còn với CDAF thì nên focus vào bề mặt có tương phản, ví dụ như CDAF thì dễ lấy nét vào quần lót có chấm bi hơn là PDAF!!!